Chiến lược ‘Near sourcing’ của các ‘đại bàng’ làm tăng đối thủ cho Việt Nam
(DNTO) - Chiến lược “Near sourcing” - chuyển dịch chuỗi cung ứng, sản xuất đến gần với thị trường tiêu thụ đang được các tập đoàn đa quốc gia hướng đến, thay vì chỉ tập trung đặt nhà máy tại Trung Quốc và Việt Nam.
Không ‘bỏ trứng vào một giỏ’ tại Việt Nam
Samsung, hãng công nghệ Hàn Quốc, là minh chứng rõ nét nhất trong việc thực hiện chiến lược “Near sourcing”. Gã khổng lồ công nghệ đã đầu tư 20 tỷ USD trong 15 năm ở Việt Nam. Dù tuyên bố không chuyển dây chuyền sản xuất smartphone từ Việt Nam sang Ấn Độ, nhưng hãng vẫn tăng sản lượng sản xuất tại Ấn Độ để phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu sang khu vực lân cận như châu Phi.
Samsung cũng có một cứ điểm sản xuất khác đặt tại Brazil từ năm 1999, nhằm đưa sản phẩm smartphone đến thị trường Mỹ Latinh. Ngoài ra, “đại bàng” này cũng đặt nhà máy tại Indonesia vào năm 2015, với công suất 800 ngàn chiếc/năm, đủ để phục vụ thị trường đông dân thứ 4 thế giới. Mới nhất, năm 2021, Samsung tiếp tục đưa vào hoạt động nhà máy ở Thổ Nhĩ Kỳ nhằm chiếm lĩnh thị trường tại đây.
Ngoài các nước phát triển, Intel cũng đang tích cực tìm đến các thị trường mới nổi để đặt nhà máy, trong bối cảnh nguồn chip toàn cầu đang thiếu hụt trầm trọng. Hãng cho biết sẽ đầu tư hơn 7 tỷ USD để xây dựng một nhà máy đóng gói và thử nghiệm chip mới tại Malaysia, xây dựng nhà máy 25 tỉ USD ở Israel hay nhà máy 4,6 tỷ USD ở Ba Lan. Intel đang lên kế hoạch xây dựng một nhà máy sản xuất tấm bán dẫn khác ở Đức. Tại Việt Nam, đến cuối 2021, Intel đã đầu tư 1,5 tỉ USD và cho biết sẽ tiếp tục tăng đầu tư tại đây.
Tương tự, “ông lớn” khác như Foxconn, LG, Apple… đang tích cực đa dạng hóa nguồn cung của mình bằng việc đặt nhà máy ở các khu vực tiềm năng.
Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) cho biết, các tập đoàn đa quốc gia đang thực hiện chiến lược “Near sourcing”, tức dịch chuyển nguồn cung về gần thị trường tiêu thụ. Việc này giúp giảm thiểu các rủi ro gián đoạn nguồn hàng, trong bối cảnh thương mại quốc tế mong manh trước biến động. Vì vậy, thay vì tập trung nhà máy sản xuất ở một số nước như Trung Quốc, Việt Nam), các tập đoàn đa quốc gia đang tập trung đầu tư các nhà máy sản xuất ở một số nước như: Ấn Độ, Mexico, Brazil…
“Việc này không chỉ sẽ ảnh hưởng đến dòng vốn FDI vào Việt Nam mà còn làm gia tăng đối thủ cạnh tranh tại các thị trường xuất khẩu chính của ta; ảnh hưởng trực tiếp đến thị phần của Việt Nam tại các thị trường này”, ông Hải nhận định.
Dễ dàng chia lại thị phần sản xuất
Sau cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, Việt Nam nổi lên như một cứ điểm để các nước công nghiệp đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đầu tư (Trung Quốc +1). Nhờ vậy, năm ngoái, tổng vốn FDI đăng kí vào Việt Nam đạt gần 27,72 tỉ USD, mức vốn FDI thực hiện đạt kỉ lục 22,4 tỉ USD, tăng 13,5% so với năm 2021 và cũng là con số cao nhất trong 5 năm (2017 - 2022).
Nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới như Apple, Goertek, Foxconn, Luxshare… đang tích cực chuyển dịch sản xuất, tăng vốn đầu tư vào Việt Nam. Hiện Apple đã chuyển 11 nhà máy từ Đài Loan sang Việt Nam. Việt Nam được nhận định trở thành một trung tâm sản xuất và xuất khẩu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Nhưng bối cảnh thế giới biến động không ngừng và tiềm ẩn nhiều rủi ro đã thúc giục các “đại bàng” tìm kiếm cơ hội nhiều hơn, ngoài đất nước hình chữ S. Việc chia nhỏ thị trường hoạt động giúp các tập đoàn đa quốc gia tiếp cận dễ dàng và nhanh chóng hơn đến các thị trường mục tiêu. Đồng thời, cũng giúp tập đoàn nhanh chóng chia lại thị phần sản xuất khi bất kì một khu vực nào gặp biến động.
Về phía Việt Nam, với những lợi thế riêng như việc duy trì kinh tế vĩ mô, chính trị xã hội ổn định, tham gia sâu rộng vào các hiệp định thương mại tự do, vị trí địa lý thuận lợi, lao động giá rẻ…, sẽ tiếp tục có sức hấp dẫn với các gã khổng lồ sản xuất của thế giới.
Minh chứng là vốn FDI vào Việt Nam trong nửa đầu năm nay vẫn đạt hơn 13,43 tỷ USD, bằng 95,7% so cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là “thỏi nam châm” hút vốn đầu tư nước ngoài với hơn 8,46 tỷ USD, chiếm gần 63% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Tuy nhiên, với độ mở nền kinh tế lớn, Việt Nam rất mong manh trước những biến động từ bên ngoài. Nửa đầu năm, sản xuất công nghiệp đã phục hồi 98,8% so với cùng kỳ. Nhưng, giá trị tăng thêm toàn ngành chỉ đạt 0,44%, mức tăng thấp nhất cùng kỳ từ năm 2011. Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) toàn ngành giảm 1,2%. Riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,6%.
Vì vậy, Cục Công nghiệp (Bộ Công thương), cho biết sẽ sớm hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Phát triển Công nghiệp trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đây sẽ là cơ sở pháp lý bền vững phát triển công nghiệp theo hướng nâng cao tự chủ về nguyên liệu, công nghệ, sản xuất và thị trường.