Hàng xuất khẩu tìm cơ hội tỷ USD ở những miền đất mới
(DNTO) - Nhiều sản phẩm chủ lực của Việt Nam như gạo, cà phê... đang dần chiếm lĩnh các thị trường như Philippines, Nam Phi, Bắc Âu... với nhiều cơ hội không kém các thị trường lớn truyền thống.
Năm 2023 dù tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa không đạt như kì vọng (355,5 tỷ USD, giảm 4,4% so với năm trước), với sự suy giảm xuất khẩu ở hầu hết các thị trường chủ lực như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN; nhưng lại nhen nhóm những tín hiệu tích cực từ những thị trường mới nổi. Theo đó, xuất khẩu Việt Nam sang những thị trường mới ghi nhận tín hiệu tăng châu Phi tăng 6,4%, một số nước Tây Âu, Đông Âu và Bắc Âu tăng 7,5%; Tây Á tăng 8,7% (theo Công thương).
Điều này cho thấy chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam bước đầu có hiệu quả và đem lại lợi ích cho doanh nghiệp trong bối cảnh nhu cầu thế giới suy giảm, đặc biệt ở những thị trường lớn truyền thống.
Đơn cử tại thị trường Nam Phi, ông Phạm Thanh Hải, Phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Nam Phi, cho biết năm 2023 đã đánh dấu việc 2 mặt hàng nông sản Việt Nam chiếm lĩnh thị trường này với trị giá kim ngạch tăng ấn tượng. Gạo đạt kim ngạch 6 triệu USD, tăng 50% so với năm ngoái và cà phê (cà phê pha sẵn và hạt rang xay) đạt 13,9 triệu USD, tăng 37%. Gạo và cà phê Việt Nam đã bắt đầu tạo được thế đứng, vị trí, uy tín tại thị trường Nam Phi.
“Gạo là mặt hàng sắp tới có thể tăng kim ngạch xuất khẩu vào Nam Phi. Việc cấm xuất khẩu gạo tại Ấn Độ đã ảnh hưởng và tạo cơ hội cho gạo Việt Nam. Trước đây, tàu vận chuyển từ châu Á sang châu Âu đi qua kênh đào Suez và biển Đỏ. Do chiến sự nên hầu hết công ty vận tải biển chuyển hướng đi qua Mũi Hảo Vọng (phía nam của Nam Phi), họ sẽ ghé vào đây để mua lương thực để đảm bảo đủ thức ăn cho chặng đường bị dài hơn 30%. Ngoài ra cà phê pha sẵn, một mặt hàng tiêu biểu Việt Nam, rất được người dân Nam Phi và các nước châu Phi ưa chuộng vì có kèm cả sữa đặc”, ông Hải nói.
Gạo cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Philippines. Năm ngoái, xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines là 3,1 triệu tấn, đạt 1,75 tỷ USD, chiếm trên 80% tổng lượng gạo nhập khẩu của nước này.
Ngoài gạo, 34 sản phẩm khác của Việt Nam đang xuất sang quốc đảo này với giá trị hàng trăm triệu USD như clanke và xi măng đạt 358,3 triệu USD; các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 352 triệu USD; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 221 triệu USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 193,7 triệu USD; thủy sản đạt 133,8 triệu USD; cà phê đạt 152,8 triệu USD; hàng dệt may đạt 125,9 triệu USD; sắt thép các loại đạt 111,4 triệu USD; điện thoại các loại 153,2 triệu USD.
Ông Phùng Văn Thành, Tham tán Thương mại Đại sứ quán Việt Nam tại Philippines, cho biết đối với Philippines, gạo của Việt Nam không chỉ là mặt hàng nhập khẩu thông thường mà còn là mặt hàng quan trọng nhằm đảm bảo an ninh lương thực.
Gạo Việt Nam có lợi thế như phẩm cấp, chất lượng phù hơn, giá phải chăng nên có tính cạnh tranh, phù hợp thị hiếu và có thể đáp ứng với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, đặc biệt là tầng lớp dân cư đông đảo có thu nhập trung bình và thấp; nguồn cung ổn định, khoảng cách địa lý, chi phí và thuận tiện trong chuyên trở, có niềm tin và mối quan hệ bạn hàng lâu năm.
Vị Tham tán cho biết Philippines là thị trường nhiều tiềm năng, tuy nhiên, trong thời gian qua các doanh nghiệp Việt Nam còn ít quan tâm tới thị trường này, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ. Hiện chỉ khoảng 35 mặt hàng/ngành hàng của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này, trong khi còn rất nhiều các mặt hàng/ngành hàng có tiềm năng khai thác.
Ngoài ra, trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Philippines, tỉ trọng mặt hàng nông sản lớn trong khi các ngành hàng khác manh mún, nhỏ lẻ, sản phẩm ít đa dạng. Chưa có sản phẩm, mặt hàng nông sản tươi sống (hoa quả, thịt) nào vào được thị trường này mặc dù nhu cầu tiêu dùng rất lớn.
“Philippines có quy mô dân số lớn (113 triệu người, đứng thứ 13 trên thế giới), và do phân hóa xã hội nên người tiêu dùng có nhu cầu khá đa dạng. Thị trường này không đòi hỏi quá cao hay quá khắt khe với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Sản xuất nội địa khá hạn chế trong khi nhu cầu tiêu thụ lớn tạo áp lực mở cửa thị trường cho các loại hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là thị trường các sản phẩm lương thực. Vì vậy, cần đẩy mạnh hoạt động quảng bá, tăng cường nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam về tiềm năng thị trường Philippines, qua đó thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường Philippines”, ông Thành nhấn mạnh.
Tại thị trường Bắc Âu, Tham tán Thương mại Nguyễn Thị Hoàng Thúy, phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển cũng cho biết đây là thị trường tuy nhỏ nhưng ổn định và đang có nhu cầu ngày càng gia tăng với sản phẩm ca cao đặc sản, hữu cơ, phát triển bền vững. Nhập khẩu ca cao khu vực Bắc Âu tăng trưởng với tốc độ trung bình 5,25%/năm do nhu cầu với các sản phẩm socola gia tăng. Đây là cơ hội cho ngành hàng ca cao Việt Nam vì trong thị trường đặc sản, các sản phẩm cạnh tranh về chất lượng và mối quan hệ lâu dài, không phải cạnh tranh về giá cả.
“Người Bắc Âu coi trọng việc đúng giờ, sự trung thực, nhất quán. Vì vậy hãy trả lời kịp thời các câu hỏi trong vòng 48 giờ, không đưa ra những lời hứa không chắc chắn. Họ đánh giá rất cao các doanh nghiệp xuất khẩu có phương thức truyền thông chuyên nghiệp (trang web tốt, tài liệu quảng cáo của công ty, thông số sản phẩm và danh thiếp). Ngoài ra, các nhà xuất khẩu ca cao nên ứng dụng các công cụ số hóa để chứng minh tính minh hoạt cho hoạt động. Ví dụ để chứng minh ca cao không đến từ khu vực có nạn phá rừng, nhà sản xuất có thể phải ghi lại tọa độ địa lý của trang trại, đồn điền ca cao hay thông qua bản đồ đa giác GPS để theo dõi toàn bộ trang trại, tăng tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc”, Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển khuyến nghị.