TS. Cấn Văn Lực: Gói hỗ trợ sắp tới phải tương đương 5,12% GDP mới đủ sức hấp thụ
(DNTO) - Theo TS. Cấn Văn Lực, năm 2021, dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam khoảng 2% và có vẻ Việt Nam đang phục hồi theo hình “chữ U” trong khi thế giới theo hình “chữ V” rõ nét, nếu không có chương trình, gói hỗ trợ đặc biệt cả về tài khóa và tiền tệ thì sẽ bị lỡ nhịp.
Kinh tế Việt Nam có thể bị lỡ nhịp
Tại Phiên toàn thể, Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021 sáng 5/12, thay mặt Nhóm Nghiên cứu của Thường trực Ủy ban Kinh tế, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho biết, nền kinh tế thế giới đang có dấu hiệu phục hồi sau tác động từ đại dịch Covid-19, nhưng sẽ chậm dần (dưới 5%) trong các năm 2022 – 2023 vì vẫn phải đối diện với nhiều rủi ro, thách thức.
Đặc biệt, nền kinh tế thế giới đang phục hồi nhưng không đồng đều; lạm phát tăng buộc các nước tăng lãi suất, thu hẹp dần các gói hỗ trợ; lợi nhuận của doanh nghiệp đã và đang giảm, vừa do dịch bệnh vừa do chi phí tăng. Báo cáo gần nhất của tổ chức quốc tế chỉ ra rằng, biến thể Omicron dù không quá nặng nề song vẫn tiêu cực, khiến kinh tế thế giới có thể giảm 0,2 - 0,4 điểm % trong năm 2022; đồng thời các nước sẽ phải thu hẹp gói hỗ trợ và tăng lãi suất.
Đối với Việt Nam, năm 2020, tăng trưởng GDP ở mức 2,91% và năm 2021 dự báo tăng 2%. Theo TS. Lực, nền kinh tế Việt Nam có vẻ đang lỡ nhịp khi phục hồi theo hình “chữ U” trong khi thế giới theo hình “chữ V” rõ nét.
“Nếu không có chương trình, gói hỗ trợ đặc biệt cả về tài khóa và tiền tệ thì kinh tế Việt Nam sẽ bị lỡ nhịp, điều đó đồng nghĩa năm 2022, mức tăng trưởng có thể chỉ đạt từ 4 - 4,5%” và Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội và không thể hoàn thành kế hoạch 5 năm mà Đảng và Quốc hội đề ra, TS Cấn Văn Lực cảnh báo.
Từ kinh nghiệm quốc tế, TS Cấn Văn Lực nêu rõ, khoảng 98% các nước coi dịch bệnh là đặc hữu; thực hiện đa mục tiêu vừa phòng, chống dịch vừa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển bền vững trong tương lai. Về gói hỗ trợ, các nước dùng cả chính sách tài khóa và tiền tệ.
Tính đến hết tháng 10/2021, bình quân các gói hỗ trợ toàn cầu vào khoảng 16,4% GDP, trong đó gói tài khóa chiếm khoảng 61,7%, tương ứng 10,2% GDP toàn cầu. Đặc biệt, các nước sẽ tập trung mạnh vào đầu tư hạ tầng y tế; đồng thời cho phép bảo lãnh của Chính phủ với các khoản vay của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cần chấp nhận thâm hụt ngân sách ít nhất 0,1 điểm % mỗi năm
Tại Việt Nam, đối với chính sách tài khóa, theo TS. Cấn Văn Lực vẫn còn dư địa tương đối khả quan do mấy năm qua đã củng cố tương đối tốt, được quốc tế đánh giá là vững chãi và thuận lợi, tuy nhiên, “phải có chính sách kiểm soát theo hướng bền vững về tài khóa”.
TS Lực đề xuất tiếp tục giảm thuế VAT từ 1 đến 2%; bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp này; có gói hỗ trợ lãi suất khoảng 20.000 - 30.000 tỷ đồng theo đề xuất của Bộ Tài chính. Riêng về cơ sở hạ tầng, tăng đầu tư bổ sung khoảng 150.000 tỷ đồng. Theo đó, gói hỗ trợ tài khóa vào khảng 389.200 tỷ đồng, tương đương 4,79% GDP.
Còn về tiền tệ, dư địa ít hơn do lãi suất đã giảm tương đối thấp trong khi xu thế thế giới bắt đầu tăng; áp lực lạm phát tăng lên, nợ xấu cũng tăng, song Việt Nam vẫn có biện pháp gián tiếp và trực tiếp để tiếp tục giảm lãi suất 0,5 - 1% thời gian tới, cho vay tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng để cho vay nhà ở quy mô 65.000 tỷ đồng; giá trị cấp bù lãi suất ước tính 6.100 tỷ đồng. Đồng thời, nghiên cứu giữ nguyên tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, luật hóa xử lý nợ xấu…
Về chính sách an sinh xã hội, TS Cấn Văn Lực đề xuất có thêm 2 gói chính sách: Hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trở lại doanh nghiệp làm việc vào khoảng 6 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ đào tạo nghề vào khoảng 6.800 tỷ đồng với tổng giá trị hỗ trợ khoảng 13 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, xem xét giảm tiền điện, nâng cao năng lực công nghệ đổi mới sáng tạo cho doanh nghiệp… với khoảng 38 nghìn tỷ đồng.
Về phạm vi hỗ trợ, đầu tiên là phải nâng cao năng lực y tế; tiếp đến là hỗ trợ doanh nghiệp, người dân cả về nghĩa vụ tài chính và tiếp cận vốn, an sinh xã hội. Đối tượng hỗ trợ chủ yếu là lao động và người sử dụng lao động. Thời gian hỗ trợ trong hai năm 2022 - 2023.
Để huy động nguồn lực cho gói hỗ trợ này, theo TS. Cấn Văn Lực, có thể huy động từ việc tiết giảm chi phí (khoảng 29 nghìn tỷ đồng); thúc đẩy cổ phần hóa, thoái vốn (80 nghìn tỷ đồng); cho phép Bảo hiểm tiền gửi, Bảo hiểm xã hội dùng tiền nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ (hơn 51 nghìn tỷ đồng); phát hành trái phiếu Chính phủ mà Ngân hàng Nhà nước có thể mua (hơn 220 nghìn tỷ đồng); rà soát các quỹ ngoài ngân sách (20 nghìn tỷ đồng); sử dụng một phần dự trữ ngoại hối nếu cần (45.400 tỷ đồng).
“Như vậy, tổng thể các gói hỗ trợ tài khóa, tiền tệ, an sinh xã hội và các chính sách khác vào khoảng 844 nghìn tỷ đồng về danh nghĩa, còn về thực chi vào khoảng 445 nghìn tỷ đồng, tương đương 5,12% GDP. Gói hỗ trợ này sẽ đủ sức hấp thụ trong thời gian tới, và khi áp dụng gói chính sách này, chúng ta cần chấp nhận thâm hụt ngân sách ít nhất 0,1 điểm % cho mỗi năm”, ông Lực nói.
Đánh giá tác động chính sách khi áp dụng các gói hỗ trợ trên, theo TS. Cấn Văn Lực nên có 2 kịch bản.
Ở kịch bản 1, nếu không có chương trình hỗ trợ, tăng trưởng GDP năm 2021 vào khoảng 2%; năm 2022 là 4% và năm 2023 là 6%. Khi có chương trình hỗ trợ, mức tăng trưởng GDP lần lượt là 6% và 7,5% vào năm 2022 - 2023. Thâm hụt ngân sách, khi không có chương trình giai đoạn 2021 - 2023 khoảng 4 - 4,5%, khi có chương trình lần lượt vào khoảng 4% - 5,08% và 5,97%.
Ở kịch bản 2, khi không có chương trình hỗ trợ, tăng trưởng GDP bình quân từ năm 2021 - 2023 lần lượt là 2,5%; 6% và 6,5%. Tuy nhiên, khi có chương trình, mức tăng trưởng 7,8% và 7,7% trong năm 2022 và 2023. Thâm hụt ngân sách khi không có chương trình lần lượt là 4% - 3,8% và 3,5%; trong khi đó, nếu có chương trình, mức tăng này lần lượt là 2,5% - 5% và 5,86%.