Khơi thông tín dụng xanh: Cần các động lực mạnh mẽ hơn, nhất là thuế, phí và cả tài chính
(DNTO) - Hiện nay, sự hỗ trợ, can thiệp của nhà nước còn thấp, khiến doanh nghiệp chưa mặn mà với trái phiếu xanh, tín dụng xanh để tham gia vào thị trường. Vì vậy, đòi hỏi các động lực của chúng ta phải mạnh mẽ hơn, nhất là liên quan đến thuế, phí và cả tài chính.
Phát biểu tại Hội thảo "Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý phát triển tín dụng xanh, trái phiếu xanh: Vấn đề cấp bách", ngày 3/4, bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho hay, trong 7 năm qua (2017-2023), dư nợ cấp tín dụng xanh của hệ thống có mức tăng trưởng bình quân đạt hơn 22%/năm. Đến 31/12/2023, đã có 47 tổ chức tín dụng (TCTD) phát sinh dư nợ tín dụng xanh đạt 620.984 tỷ đồng, tăng 24% so với cuối năm 2022, chiếm tỷ trọng khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm tỷ trọng gần 45%) và nông nghiệp xanh (gần 30%).
Nhiều TCTD đã xây dựng các gói tín dụng xanh, chương trình tín dụng xanh phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh, chuyển đổi xanh. Đến 31/12/2023, dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt 2,84 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 20%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế, tăng hơn 20% so với cuối năm 2022.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nêu thực trạng của thị trường vốn cho tăng trưởng xanh, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính - Tiền tệ Quốc gia cho biết, tiềm năng của thị trường tài chính xanh dù đã được triển khai tại Việt Nam hơn 10 năm nhưng quy mô còn nhỏ.
Đơn cử, với tín dụng xanh, quy mô mới chỉ chỉ chiếm 4,4% tổng dư nợ của nền kinh tế, trái phiếu xanh cũng rất thấp. Các dự án xanh thường có kỳ hạn dài có thể lên đến 20 năm, chi phí đầu tư lớn, trong khi các nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng thường là vốn huy động ngắn, trung hạn và bên vay đòi hỏi lãi suất ưu đãi…
Với trái phiếu xanh, còn thiếu các hướng dẫn chi tiết của các cơ quan chức năng (thông tin, tiêu chí về dự án xanh); chưa có các chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát hành và đầu tư. Với cổ phiếu xanh, các công ty niêm yết chưa có sự chủ động đưa ESG vào định hướng kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện hiện tượng lợi dụng nhãn mác xanh nhưng không thực sự vì môi trường... Điều này cho thấy một thực trạng rằng Chính phủ đã có chủ trương và mục tiêu chuyển đổi xanh nhưng quá trình triển khai vẫn rất chậm chạp, thị trường vốn cho tăng trưởng xanh còn nhiều vướng mắc.
"Đây là những vấn đề mới, đòi hỏi nguồn lực tức là phải có cả "cây gậy và củ cà rốt". Việt Nam đã xây dựng được cơ chế chính sách nhưng lại để doanh nghiệp tự chiến đấu", ông Lực nói.
Cần có cơ chế và động lực đủ mạnh
Nêu giải pháp, ông Lực nhấn mạnh, cần có cơ chế và động lực đủ mạnh. Hiện nay, sự hỗ trợ, can thiệp của nhà nước vào thị trường còn thấp, doanh nghiệp chưa thấy đủ sự hấp dẫn của trái phiếu xanh, tín dụng xanh để tham gia vào thị trường.
Ông Lực lý giải, nếu vay thông thường để đầu tư thì các doanh nghiệp sẽ không có động lực chuyển đổi bởi việc thay đổi dây chuyền, hệ thống sang chuyển đổi xanh vô cùng tốn kém. Vì vậy, cần có lãi suất ưu đãi, phải có công cụ tài chính hấp dẫn mới có người tham gia.
Dẫn chứng tại Trung Quốc, ông Lực cho rằng, họ đã đi trước chúng ta 5 năm và đang có 3 điểm rất đáng học hỏi. Một là, họ quy định rất rõ, nếu như lĩnh vực tư nhân đầu tư vào tăng trưởng xanh sẽ được giảm lãi suất. Hai là, họ đã thành lập quỹ phát triển xanh quốc gia để hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ để chuyển đổi xanh, đặc biệt là mạnh tay giảm thuế, phí. Ba là, khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm sẵn sàng bỏ tiền để đầu tư vào những lĩnh vực mới, gắn với bảo vệ môi trường.
"Vì vậy, để các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực chuyển đổi xanh, các động lực của chúng ta phải mạnh mẽ hơn, nhất là liên quan đến thuế, phí và cả tài chính", TS. Lực nhận định.
Cũng theo ông Lực, không chỉ có nguồn vốn trong nước các quỹ đầu tư quốc tế cũng có 15,5 tỷ USD để đầu tư vào nhưng Việt Nam chưa do chưa có danh mục, dự án, chương trình, địa phương cụ thể để họ đầu tư. Cuối cùng, vấn đề liên quan đến danh mục phân loại xanh, đây là điểm cần cập nhật đầy đủ kịp thời.
Vấn đề thực thi chính sách và cụ thể hoá là hai điểm yếu nhất. Các doanh nghiệp quốc tế sẵn sàng đầu tư các dự án 1 - 2 tỷ USD vào Việt Nam nhưng việc chưa có danh mục cụ thể khiến dòng vốn đầu tư bị cản trở.
"Về thẩm định, tư vấn với danh mục xanh, tôi cho rằng nên thuê tư vấn độc lập. Cơ quan Nhà nước khó có thể "vừa đá bóng, vừa thổi còi". Chúng ta nên xây dựng cơ chế thẩm định mạch lạc gồm đơn vị tư vấn định giá đất và hội đồng thẩm định", ông Lực đề xuất.