Đi tìm những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế
(DNTO) - “Làm mới” động lực cải cách thể chế, khơi thông thị trường trái phiếu và bất động sản, tận dụng tối đa các FTA… là những động lực mới giúp kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng.
Phát biểu tại “Diễn đàn Doanh nghiệp 2024: Khơi thông động lực tăng trưởng mới", chiều 12/4, ông Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng, Giám đốc Trung tâm thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương nhận định, tăng trưởng GDP quý 1/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước là mức tăng trưởng tích cực.
Mức tăng trưởng này có sự hỗ trợ tích cực từ tăng trưởng tổng cung và tổng cầu gồm xuất khẩu tăng 17%, giải ngân vốn đầu tư công tăng 7,1%, đầu tư công tăng 22%, lãi suất điều hành của các ngân hàng trung ương đang trong xu thế giảm khiến áp lực dòng tiền và lãi suất trong nước giảm, giá hàng hóa cơ bản năm nay dự báo giảm 3,3%, lạm phát có xu hướng giảm, dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc tăng…
Tuy nhiên, ông Tú Anh nền kinh tế vẫn còn tồn tại những điểm khó khăn. Cụ thể, khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn gặp khó do thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa trở thành kênh hỗ trợ cho doanh nghiệp. Cùng với đó, thị trường bất động sản vẫn chưa có sự khởi sắc. Cả hai yếu tố này sẽ tác động đến khả năng cung ứng của nền kinh tế và cần tập trung để khơi thông trong thời gian tới.
“Các rủi ro địa chính trị như căng thẳng tại Trung Đông, đóng cửa biển Đỏ do chiến sự sẽ gây đứt gãy chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, chiến sự Nga –Ukraine và cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn có thể lan rộng ngoài tầm kiểm soát sẽ tổn hại đến dòng vốn và dòng chảy thương mại. Cùng với đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa được khơi thông, gần 300 nghìn tỷ đến hạn trong năm 2024 có thể tạo ra rủi ro lớn cho nền kinh tế. Thị trường bất động sản không được khơi thông sẽ trở thành điểm nghẽn lớn”, ông Tuấn Anh nhận định.
Chia sẻ về động lực mới cho nền kinh tế, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho biết Việt Nam cần quyết liệt hơn để cải cách thể chế giúp phát huy hiệu quả hơn nội lực của nền kinh tế. Nội lực ấy không chỉ giới hạn ở lượng tiền, vàng và các tài sản khác mà người dân Việt Nam đang nắm giữ. Cần chú ý đến nội lực khác của nền kinh tế gắn với quy mô dân số đã vượt 100 triệu dân, gắn với tầng lớp thu nhập trung bình có thể đạt hơn 50 triệu người vào năm 2050, thế hệ “Gen Z” đang ngày một mở rộng, và nguồn tài nguyên dữ liệu nhiều tiềm năng.
Theo tính toán của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) cho thấy nếu xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách với mức trung bình của OECD về các rào cản thương mại và đầu tư, Việt Nam có thể tăng GDP bình quân đầu người thêm 1% sau 1 năm, và 7,3% sau 10 năm tiến hành cải cách (so với kịch bản không cải cách).
Lãnh đạo CIEM khuyến nghị Việt Nam cần cân nhắc một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế. Để tạo động lực liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp, cần hướng theo tư duy chuỗi giá trị “cùng hợp tác, cùng thắng”.
Ngoài ra, nghiên cứu, đề xuất và triển khai thực hiện cơ chế đặc thù cho phát triển một số vùng kinh tế-xã hội, đô thị lớn. Sớm rà soát, hoàn thiện khung chính sách cho các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo) để tạo không gian kinh tế lớn hơn cho cộng đồng doanh nghiệp.
Ông Trịnh Minh Anh, Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Liên ngành Hội nhập Quốc tế về Kinh tế, cho biết việc khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) là động lực tích cực cho nền kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì tang trưởng giai đoạn tới.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 19 FTA (16 FTA đã ký kết và thực thi; 3 FTA đang đàm phán). Cùng với tham gia WTO từ năm 2007, việc thực thi các FTA đã góp phần thúc đẩy GDP của Việt Nam tăng hơn 300%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 350%.
“Trong tuần trước, Chính phủ và các bộ ngành đã gỡ được nút thắt cuối cùng trong đàm phán hiệp định thương mại tự do với các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) về vấn đề nhập khẩu, thuế, nhập khẩu xăng dầu. Hiệp định này được khởi động năm ngoái, cách đây đúng một năm, và dự kiến sẽ được kí kết trong thời gian tới. Đây là cửa ngõ với sự tham gia của rất nhiều các quỹ tài chính, các nhà đầu tư lớn. Do đó nếu có được FTA vào thị trường này sẽ mở ra cánh cửa vào thế giới Ả Rập, thế giới của những người có tiền”, ông Minh Anh nói.
Tuy nhiên, vị này cho biết việc tham gia và thực thi các FTA cũng kèm theo những rủi ro và thách thức, nhất là về năng lực cạnh tranh, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật cũng như việc thực thi các cam kết trong những lĩnh vực mới chưa có trong các FTA trước đây như vấn đề lao động, công đoàn, môi trường, thách thức về bảo đảm ổn định chính trị- xã hội, tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế. Ngoài ra, những hạn chế nội tại như sự quan tâm của người dân, doanh nghiệp, chính quyền địa phương chưa đúng mức và chưa dành nguồn lực tương xứng cũng đã và đang là rào cản khiến cho không ít cơ hội từ FTA bị bỏ lỡ.
Bên cạnh yếu tố về giá cả, chất lượng sản phẩm và thời gian giao hàng, xanh hóa và phát triển bền vững là những tiêu chí cạnh tranh mà các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản... yêu cầu ở các nhà cung cấp.
“Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam muốn tồn tại phải vượt qua bài toán ‘xanh’ trong hoạt động sản xuất, với nhiều tiêu chí như xử lý đạt tiêu chuẩn chất thải phát sinh, sản xuất tiết kiệm năng lượng, giải pháp tái chế chất thải”, ông Minh Anh nói.