Chuyện Shark Linh chưa giải ngân sau 4 mùa Shark Tank: Hỗ trợ khởi nghiệp có chăng mới chỉ là phong trào?
(DNTO) - Con số giải ngân thực tế sau chương trình Shark Tank mùa 4 quá thấp so với cam kết, cùng với thông tin Shark Thái Vân Linh ngồi 4 mùa nhưng chưa giải ngân cho startup nào, dấy lên nhiều suy nghĩ về việc chương trình hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam liệu đã đi vào thực chất?
Đầu tư đâu dễ như ‘cái bắt tay’
Sau Shark Tank Việt Nam mùa 4, số vốn thực rót cho các startup chỉ khoảng hơn 21 tỷ đồng, chiếm khoảng 10% so với cam kết trên truyền hình. Chưa dừng lại ở đó, dư luận còn xôn xao khi Shark Thái Vân Linh dù ngồi ở vị trí nhà đầu tư trong 4 mùa Shark Tank nhưng đến hiện tại chưa giải ngân cho startup nào.
Trong khi đó, tổng cam kết của Shark Linh sau các mùa là 57,9 tỷ đồng cho các startup (mùa 1 là 26,8 tỷ đồng; mùa 2 là 25,1 tỷ đồng, mùa 3 không có thỏa thuận và mùa 4 là 6 tỷ đồng ).
Giới đầu tư đều hiểu rằng, không bao giờ có chuyện một thương vụ đầu tư có thể quyết định chỉ sau vài phút thương thảo trên sóng truyền hình. Bên cạnh đó, việc rót vốn đầu tư cho startup nào còn tùy thuộc vào đặc tính ‘săn mồi’ của mỗi ‘cá mập’.
Với nhà đầu tư được xếp vào nhóm nhà đầu tư thiên thần như Shark Đỗ Thị Kim Liên, Shark Nguyễn Hòa Bình, Shark Nguyễn Thanh Việt hay Shark Nguyễn Xuân Phú, Shark Nguyễn Thanh Hưng…, là những người đứng đầu tập đoàn lớn, họ sẽ có xu hướng đầu tư, thâu tóm các startup có sản phẩm, dịch vụ có thể hỗ trợ cho hệ sinh thái của họ, để “làm giàu” cho tập đoàn họ.
Vì vậy, những startup được xem không hỗ trợ được gì cho hệ sinh thái của họ, đương nhiên sẽ không được đầu tư. Tuy vậy, các “cá mập” này dễ dàng xuống tiền hơn bởi tiền đầu tư một phần là tiền cá nhân, không phải thông qua hội đồng đầu tư.
Còn với các ‘cá mập’ là đại diện của các quỹ đầu tư mạo hiểm, như Shark Thái Vân Linh, Shark Louis Nguyễn, Shark Nguyễn Mạnh Dũng… sẽ khá ‘nhạy’ khi ‘đánh hơi’ startup tiềm năng vì họ đã có nhiều kinh nghiệm trong ngành đầu tư khởi nghiệp.
Tuy nhiên, bản thân các quỹ đều mong muốn đầu tư startup có khả năng tăng trưởng hàng chục, hàng trăm lần. Nhưng theo một vị chuyên gia, khi các startup chọn cách lên truyền hình để gọi vốn thì đa số mô hình kinh doanh không có nhiều đột phá, khả năng tăng trưởng không cao. Vì vậy rất khó gọi vốn được từ quỹ mạo hiểm.
Một khía cạnh khác là bản thân các quỹ đầu tư mạo hiểm thường có quy trình thẩm định khá khắt khe, các quyết định rót vốn phải thông qua hội đồng đầu tư. Vì vậy, khi cử một đại diện của quỹ lên truyền hình thương thảo cũng chỉ là bước tiếp nhận thông tin từ startup, ngay cả cam kết đầu tư cũng chỉ là bắt đầu giai đoạn tìm hiểu. Do vậy, từ truyền hình ra thực tế là câu chuyện rất dài.
Còn về khía cạnh các startup, ngay cả với nhiều startup lên chương trình gọi vốn, họ đương nhiên mong muốn được đầu tư, nhưng cũng không quá kỳ vọng vào việc được rót vốn. Đặc biệt với những startup tiềm năng, họ thừa hiểu rằng không thể “dễ dãi” trong việc chọn nhà đầu tư. Tuy vậy, nhiều startup vẫn lựa chọn tham gia gọi vốn, vì những hiệu ứng truyền thông mang lại sau chương trình.
Ông Nguyễn Ngọc Luận, founder và CEO thương hiệu cà phê trái cây Meet More, (startup tham gia Shark Tank mùa 4, kêu gọi 30 tỷ đồng cho 20% cổ phần công ty) từng chia sẻ, mặc dù chưa chưa thành công gọi vốn trong, nhưng nhờ chương trình mà thương hiệu, sản phẩm của Meet More được biết đến nhiều hơn, điều này giúp startup mở rộng thị trường.
Cần bước qua thời kì ‘chỉ tạo phong trào’
Không thể phủ nhận những chương trình khởi nghiệp trong thời gian qua là một trong những động lực thúc đẩy thị trường khởi nghiệp Việt Nam thêm phần năng động. Ngay cả trong chương trình Shark Tank, nhiều startup nhận được đầu tư đã ghi nhận sự phát triển vượt bậc, như Coolmate (startup thời trang nam), Vua Cua (startup thực phẩm).
Tuy vậy, nhìn vào tỷ lệ rót vốn hậu Shark Tank cũng đủ thấy, những chương trình như vậy cũng chỉ được xem là những cuộc trải nghiệm startup, chứ chưa thể kỳ vọng quá nhiều hơn thế.
Chính bà Lê Hạnh, Tổng Giám đốc TV Hub, Nhà sản xuất chương trình Shark Tank cũng thừa nhận “cái bắt tay” trên truyền hình mới chỉ là bắt đầu tìm hiểu nahu, nếu nghĩ là đưa tiền thì là lầm tưởng. “Có được cái bắt tay của Shark trên TV cũng là một phần thưởng đối với startup rồi”, bà Lê Hạnh nói.
Thế nhưng, trong một hội nghị mới đây, ông Nguyễn Đình Thắng Chủ tịch CLB Đầu tư Công nghệ số (VDI), Chủ tịch CLB Công nghệ tài chính Việt Nam (Vina Fintech) từng nêu một quan điểm khiến những ai đang quan tâm đến phong trào hỗ trợ khởi nghiệp Việt Nam phải suy nghĩ:
“Theo sát phong trào của SV Startup hay Techfest thời gian qua, chúng tôi nhận thấy rằng, chúng ta vẫn đang cố gắng để làm phong trào là nhiều, chứ đi vào hỗ trợ thực chất tức từ ý tưởng sáng tạo, hỗ trợ tư vấn, định hướng, nguồn lực để thành khả thi, thành công còn rất nhiều giới hạn”.
Quan điểm này không sai, bởi lẽ hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam đã hình thành được 6-7 năm. Chúng ta đã có tới 3.800 startup, 217 quỹ đầu tư trong và ngoài nước đang hoạt động, 119 tổ chức thúc đẩy kinh doanh/cơ sở ươm tạo cùng 138 trường đại học, cao đẳng tổ chức hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam cũng được đánh giá khá hoàn thiện khi có sự góp mặt của các thành phần như cơ quan hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ đầu tư, mạng lưới chuyên gia cố vấn, trường đại học và bắt đầu có sự tham gia của các tập đoàn lớn.
Thế nhưng, nhìn vào nhiều cuộc thương thảo trên chương trình Shark Tank Việt Nam, cho thấy nhiều startup vẫn còn khá “ngô nghê”, thậm chí bị đánh giá “ngáo giá”. Những thiếu sót của startup như định giá sai, founder không nắm vững số liệu tài chính doanh nghiệp, thiếu kĩ năng trình bày, đàm phán… không chỉ xảy ra ở mùa 1, mùa 2, mà tới mùa 4 vẫn tồn tại.
Điều này chỉ ra hai vấn đề: Một là bản thân nhiều startup chưa có ý thức chuẩn bị cho mình hành trang kĩ lưỡng để bước vào vòng gọi vốn. Hai là các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp chưa “thấm” đến cộng đồng các startup.
Sau 6-7 năm hình thành, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam ngày nay đang bước vào chu kỳ mới. Ở chu kỳ này, chúng ta không còn tham vọng "người người khởi nghiệp, nhà nhà khởi nghiệp", mà cần đặt mục tiêu có thêm nhiều startup đạt ngưỡng "kỳ lân" (giá trị tỷ đô). Vì vậy, các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp giai đoạn mới không nên chỉ làm phong trào bề nổi để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, mà phải đi vào thực chất hơn, tức các hỗ trợ cho khởi nghiệp cần đi vào chiều sâu hơn.
Trong đó, hỗ trợ lớn nhất mà cộng đồng startup mong muốn là sớm có khung khổ pháp lý cho các lĩnh vực mới như blockchain, fintech... Ngoài ra, sự kết nối chặt chẽ hơn giữa các thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp, bởi nguồn lực lớn nhất không nhất thiết phải là nguồn vốn, mà là từ mạng lưới gồm các chuyên gia, cố vấn, nhà đầu tư, tập đoàn...