Thủ tướng lắng nghe 'hiến kế' phát triển thị trường lao động
(DNTO) - Sáng nay, 20/8, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị “Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập”.
Theo Bộ LĐTB&XH, quy mô lực lượng lao động ngày càng tăng, nguồn cung được đảm bảo với trên 51,6 triệu người. Chất lượng lao động ngày càng nâng cao, tỉ lệ qua đào tạo tăng qua từng năm, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 26,2%. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vấn đề giải quyết việc làm được đẩy mạnh, góp phần duy trì tỉ lệ thất nghiệp chung của cả nước luôn dao động trong khoảng 2,2-2,3%.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ rõ, thị trường lao động nước ta còn chưa phát triển kịp với tốc độ và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tính thích ứng, chủ động, linh hoạt kém, nhất là trước những "cú sốc" như đại dịch Covid-19 đã bộc lộ những bất cập như: áp lực giải quyết việc làm cho gần 2 triệu lao động rời khỏi thị trường lao động (phần lớn là lao động tự do, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật); tình trạng khan hiếm lao động cục bộ ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn còn tồn tại; chưa có giải pháp để nâng tầm, khai thác và thu hút lao động tại chỗ hiệu quả; tiềm ẩn nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt lao động cho giai đoạn phục hồi và phát triển; sự thiếu hụt các kỹ năng của người lao động để duy trì việc làm hoặc chuyển đổi 2 nghề, thích ứng với tình hình sau đại dịch; thiếu cơ sở dữ liệu điện tử trong quản lý lao động, nhu cầu kỹ năng tương lai.
Tại Hội nghị, ở góc độ chuyên gia, TS. Bùi Sỹ Lợi cho rằng thị trường lao động Việt Nam cho đến nay còn một số hạn chế: Cơ bản chúng ta chưa bắt kịp được các chuẩn mực kinh tế thị trường một cách linh hoạt, bền vững, hiện đại, hội nhập và hiệu quả. Điều này thể hiện trên 4 vấn đề chính. Đó là thị trường lao động phát triển nhưng chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế và giải quyết việc làm một cách bền vững. Thứ nữa, thị trường lao động có sự phân mảng giữa các vùng, khu vực mà tác động của dịch Covid-19 là biểu hiện lớn nhất cho thấy sự mất cân đối cung cầu lao động một cách cục bộ.
Bên cạnh đó, quan hệ cung cầu lao động trên thị trường chưa phù hợp cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Chúng ta không quan tâm đến cơ cấu nên có thể đào tạo nhưng lại không sử dụng được vì không đào tạo theo nhu cầu của thị trường. Đặc biệt, vấn đề yếu nhất của Việt Nam hiện nay: Kết cấu hạ tầng dịch vụ thị trường chưa hiện đại, đó chính là công nghệ thông tin. Chúng ta bàn đến hỗ trợ người bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 nhưng không chủ động được để cung ứng gói an sinh xã hội đến người dân, điều này rất đáng suy nghĩ khi chúng ta thực hiện chính sách về lao động.
Ông Bùi Sỹ Lợi cho rằng nên xác định rõ quan điểm, định hướng và thống nhất một số nhận định, phát triển thị trường lao động theo các tiêu chí: "Linh hoạt - Hiện đại - Bền vững - Hội nhập - Hiệu quả".
Để thị trường lao động đạt được 5 yếu tố này, theo ông Lợi, cần vận hành hiệu quả với thị trường vốn, đất đai, hàng hoá, dịch vụ, thông tin, giảm thiểu các rào cản với người lao động. Quan trọng nhất là thu hẹp được việc làm của khu vực phi chính thức. Điều này không có nghĩa là chuyển ồ ạt lao động của thị trường phi chính thức sang chính thức mà chuyển dần từng bước và có điều kiện.
"Lao động là hàng hoá rất đặc biệt, khác với hàng hoá thông thường khác; thị trường lao động là nơi mua bán lao động theo giá cả lao động nên phải có yếu tố sản xuất đặc biệt và vận hành khách quan, chịu tác động bởi nhiều yếu tố khác; thị trường lao động phải tác động điều hoà quan hệ về cung cầu lao động trong nền kinh tế thị trường và phải vận hành ổn định cùng thị trường vốn, hàng hoá, dịch vụ để tạo nền tảng tăng trưởng", ông Lợi nói.
WB: Việt Nam cần tăng cường chất lượng giáo dục đào tạo để phục vụ nhu cầu việc làm
Đóng góp ý kiến tại Hội nghị, Đại diện Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng: Việt Nam luôn coi trọng giáo dục phổ thông, tuy nhiên hệ thống giáo dục của Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng để có thể tận dụng được hết tiềm năng của thanh thiếu niên tốt nghiệp phổ thông.
Việt Nam có lực lượng lao động có kỹ năng chưa được cao. Đây là vấn đề của giáo dục đào tạo nghề bậc trung cấp và cao học. Về kỹ năng của lao động, hiện tại, Việt Nam đứng thứ 116/141 nước về kỹ năng của học sinh tốt nghiệp trong Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu, thấp hơn nhiều so với một số nước, trong đó có Singapore đứng thứ 79.
Đại diện WB nêu dẫn chứng: Năm 2019 đã có cuộc điều tra trong các doanh nghiệp của Việt Nam, cho thấy nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng người lao động có chất lượng. 73% doanh nghiệp có báo cáo rằng họ gặp khó khăn trong tuyển dụng những lao động cho vị trí quản lý, 61% gặp khó khăn để tuyển dụng người lao động có kỹ năng phù hợp. Con số này cho thấy có khoảng cách lớn giữa cung và cầu lao động Việt Nam.
Trong bảng điều tra về lao động Việt Nam năm 2020, chỉ rất ít đơn vị của Việt Nam hoàn tất giáo dục đào tạo nghề thuộc giáo dục cao học. Điều này do người Việt chưa được tiếp cận với giáo dục cao học. Tỉ lệ lao động tốt nghiệp đại học và cao học ở Việt Nam khoảng 26,8%, thấp hơn con số 51,3% của các nước thu nhập trung bình.
Về kỹ năng, 17% lao động Việt Nam có bằng đại học và trên đại học, phần còn lại trung bình lao động được đào tạo trong vòng 8 năm. Việt Nam muốn tăng cường chất lượng lao động tới năm 2050 nhưng với đà này thì chỉ 15% lực lượng lao động được tiếp cận giáo dục đại học vào năm 2030, thấp hơn nhiều so với các quốc gia ở châu Á khác.
Việc làm và nhu cầu việc làm đang thay đổi nhanh chóng. Điều tra việc làm Việt Nam 2020 cho thấy việc làm đơn giản ngày càng giảm và việc làm trong thời kỳ mới đòi hỏi phải có nhiều kỹ năng cao và chuyên sâu hơn. Để giải quyết vấn đề này, đại diện WB có 5 gợi ý: Thứ nhất là cải thiện hệ thống lao động để số lượng lao động tốt nghiệp cao học cao hơn, đáp ứng yêu cầu của người tuyển dụng lao động.
Thứ hai, tăng cường chất lượng lao động để họ có đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời mình; Thứ ba, đào tạo lao động là học sinh về những kỹ năng mới như kỹ năng số, kỹ năng xã hội, kỹ năng học tập chất lượng cao và kỹ năng xanh…; Thứ tư, tương tác với doanh nghiệp để họ tham gia vào quá trình đào tạo nghề, tăng cường mối quan hệ liên kết với các doanh nghiệp trong thiết kế các chương trình đào tạo để đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng lao động; Thứ năm, đầu tư vào hệ thống thông tin việc làm tích hợp giữa người lao động, người tuyển dụng lao động, các cơ sở đào tạo để họ có thể đề nghị người lao động phải đưa ra những quyết định phù hợp đối với sự nghiệp của mình.