Kinh tế Việt Nam có ‘dấu hiệu’ lỡ nhịp nếu các chính sách tài khóa, tiền tệ không kịp thời
(DNTO) - Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực, đại diện nhóm nghiên cứu của Thường trực Ủy ban Kinh tế và các chuyên gia, cho rằng kinh tế Việt Nam “đang có dấu hiệu lỡ nhịp, lỡ cơ hội, tụt hậu” nếu không có các chính sách tài khóa, tiền tệ kịp thời để hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế.
Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, nhận định do tác động của dịch Covid-19, triển vọng năm 2022 của Việt Nam dự báo rất khó khăn, đồng thời ông nhấn mạnh, dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ hiện nay vẫn còn. Các chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế phải tác động cả tổng cung và tổng cầu, vì hiện nay “cầu thì yếu còn cung thì tắc nghẽn”.
TS Cấn Văn Lực đã nêu một số gợi ý chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội trong tương lai.
Đáng lưu ý, TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu đã đề xuất gói hỗ trợ lên tới 843.845 tỷ đồng, chiếm 10,38% GDP (giá trị công bố). Trong số này, chính sách tài khóa chiếm lớn nhất trong cơ cấu với 8,34%, tương đương 678.395 tỷ đồng; chính sách tiền tệ 65.000 tỷ đồng (chiếm 0,8%), chính sách an sinh xã hội là 12.800 tỷ đồng và chính sách khác là 37.650 tỷ đồng…
Về giá trị thực tế sẽ chi, ông Lực cho biết con số thực tế sẽ là 445.760 tỷ đồng (chiếm 5,48% GDP).
Để thực hiện gói hỗ trợ này, nhóm nghiên cứu đã có những tính toán cụ thể về nguồn lực huy động. Trong đó, khoản huy động lớn nhất sẽ là phát hành trái phiếu Chính phủ với 220.060 tỷ đồng. Về điều kiện thực hiện, theo ông Lực, cần đáp ứng quan điểm, mục tiêu và tiêu chí hỗ trợ đã nêu, triển khai nhanh chóng và có tính đến năng lực thực hiện tại các đơn vị, địa phương. Đồng thời phải hết sức quan tâm tháo gỡ các rào cản thể chế để tăng khả năng hấp thụ, mới đảm bảo các chính sách phát huy hiệu quả…
Nhấn mạnh sự cần thiết gói hỗ trợ, PGS. TS Vũ Sỹ Cường, Kinh tế trưởng Viện công nghệ và phát triển tài chính (Học viện Tài chính) cho rằng: Gói hỗ trợ cần có kế hoạch kịp thời, đẩy mạnh khả năng giải ngân. Thực hiện hàng loạt giải pháp hỗ trợ đẩy mạnh đầu tư công. Đặc biệt cần gắn liền chính sách kinh tế với y tế. Theo đó, cần cụ thể hóa các kịch bản y tế để tạo sự chủ động cho doanh nghiệp. "Doanh nghiệp sẽ không dám đầu tư vì cảm giác không chắc chắn", ông Cường nói.
Trong khi đó, PGS.TS Trần Hoàng Ngân, Đại biểu Quốc hội đoàn TP.HCM, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM cũng có đề xuất cụ thể về cơ cấu gói hỗ trợ kinh tế-xã hội.
Thứ nhất, theo PGS Ngân, cần dành nguồn lực cho y tế, để họ sẵn sàng và nhanh nhất, chậm vaccine 1 ngày là đánh vào sức khỏe nhân dân. Đồng thời nâng cao cải thiện thu nhập đội ngũ y bác sỹ.
Thứ hai, một gói hỗ trợ mang tầm diện rộng để nhiều ngành, người dân được thụ hưởng, theo đó cần thiết có gói an sinh xã hội. Ngoài ra cũng cần có gói đầu tư công, ưu tiên cho đường cao tốc, hạ tầng số…
Cũng theo đề xuất của ông Ngân, cần đầu tư hơn nữa vào các đầu tàu tăng trưởng, tạo động lực, tăng thu ngân sách để trả nợ. Cụ thể, ông Ngân cho rằng cần đầu tư vào Đông Nam Bộ, kết nối các tỉnh thành với kinh phí 93.000 tỷ đồng.
Về hỗ trợ doanh nghiệp, ông Ngân cho rằng nên triển khai 3 loại hỗ trợ. Đó là hỗ trợ phi tiền tệ, tháo gỡ về thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh… Hỗ trợ trực tiếp như kéo dài việc miễn giảm thuế phí. Và hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất, với quy mô 1 triệu tỷ đồng, hỗ trợ lãi suất 2%, kéo dài 2 năm, tổng vốn là 40.000 tỷ đồng, tập trung ưu tiên ngành có khả năng hấp thụ vốn.
TS. Trương Văn Phước, nguyên quyền Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, nhấn mạnh sự cần thiết của các gói hỗ trợ, ông Phước cho biết dư địa điều hành chính sách tiền tệ vẫn còn. Cụ thể như mức lạm phát đến cuối tháng 10 năm nay vẫn thấp và có khả năng dưới 3% đến cuối năm 2021, có thể giảm lãi suất điều hành của NHNN ít nhất 1%, mở rộng và nới lỏng điều kiện cho vay tái chiết khấu, tái cấp vốn… Nhờ đó mà đưa lãi suất cho vay thương mại bình quân giảm xuống.
Về chính sách, ông Phước kiến nghị Quốc hội xem xét việc đặt ra mức lạm phát mục tiêu bình quân trong khoảng thời gian 3-5 năm. Không nhất thiết chính sách tiền tệ phải điều hành sao cho lạm phát hàng năm dưới mức mục tiêu (4%) như hiện nay.
Theo ông Phước, với xu hướng lãi suất quốc tế đang tăng dần, nên việc vay nợ nước ngoài chưa thật phù hợp thì nguồn tài chính chủ yếu là vay nợ trong nước...