Hóa giải thách thức tiếp cận kho tín dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNTO) - Hiện nay trong bối cảnh phục hồi lại xuất hiện hai ngịch lý: Các ngân hàng đang phải ôm một lượng tiền gửi lớn của người dân từ trước đến nay, trong khi tín dụng tăng chậm dù lãi suất cho vay giảm; tiền dư, lãi suất giảm nhưng doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng không thể tiếp cận.
Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Việt Nam, chỉ ra 3 nguyên nhân của vấn đề “tồn kho” vốn tín dụng. Thứ nhất, tình hình kinh tế chưa hẳn phục hồi khi chính trị thế giới (giữa Nga – Ukraine) còn phức tạp, làm ảnh hưởng nguồn cung, đơn hàng và giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu. Ở trong nước, cầu đầu tư chưa có tiến triển tích cực do các kênh đầu tư truyền thống như chứng khoán, bất động sản và trái phiếu vẫn “tê cứng”; song song với đó là nhiều dự án có sức lan tỏa cao cũng chưa được triển khai, kể cả những dự án đầu tư công, bất động sản thương mại và bất động sản nhà ở xã hội mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tạo điều kiện về tín dụng, dẫn đến cầu tiêu thụ và cầu tín dụng không thể tăng cao.
Thực trạng cho thấy có nhiều doanh nghiệp muốn vay nhưng không chứng minh được khả năng trả nợ, mặt khác có nhiều doanh nghiệp được ngân hàng mời chào vay nhưng lại chưa có nhu cầu vay. Vậy, phải chăng việc khai thông nguồn vốn tín dụng không chỉ hướng tới các đối tượng có nhu cầu vay mà phải hướng tới cả các đối tượng có tiền mang đi gửi ngân hàng do chưa biết phải đầu tư vào đâu. Nói một cách khác là làm sao để họ rút tiền gửi và lưu thông vào thị trường.
Thứ hai, khẩu vị rủi ro của các Ngân hàng Thương mại (NHTM) đang có sự thay đổi. Tính đến cuối tháng 6/2023, các NHTM đã cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng gần 4% so với cuối 2022, chiếm khoảng 18,5% dư nợ nền kinh tế. Đây là con số không hề nhỏ nhưng thực tế tình hình cho vay 3 tháng gần đây lại có xu hướng khó khăn hơn. Phải chăng các NHTM đang dự báo tình hình tăng trưởng của thị trường khác so với dự báo của doanh nghiệp.
Thứ ba, thực trạng yếu kém trong công khai, minh bạch tài chính và kế hoạch kinh doanh từ phía DNNVV là không thể phủ nhận, thậm chí là chậm tiến bộ. Đây là một trong ba mấu chốt khiến cho các NHTM và DNNVV chưa thể xây dựng lòng tin với nhau để từ đó tăng cường hoạt động cho vay tín chấp. Về bản chất, các ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên khi cảm thấy yên tâm về sức khỏe của người đi vay thì họ chắc chắn sẽ không từ chối.
Liên quan đến vấn đề này, TS Lê Đạt Chí, Trưởng khoa Tài chính (Trường ĐH Kinh tế TP.HCM), phân tích: Trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp dù có tài sản như văn phòng, nhà xưởng nhưng không được thế chấp để vay vốn trung, dài hạn mà ngân hàng chỉ chấp nhận cho vay ngắn hạn (khoản vay 1 năm trở xuống). Nhưng cũng tài sản này, doanh nghiệp có thể bảo đảm cho một lô trái phiếu phát hành vay vốn bên ngoài và ngân hàng có thể tham gia mua trái phiếu đó. Đây là nghịch lý và mâu thuẫn nhau nhưng vẫn tồn tại trong nhiều năm qua. Hay như doanh nghiệp có tài sản thiết bị, máy móc cũng không thể cầm cố vay vốn trung, dài hạn.
Các doanh nghiệp không vay được vốn trung, dài hạn thì sẽ luôn bị áp lực về lãi suất và dòng tiền thu về để thanh toán nợ cho các nhà băng và khó chủ động hơn trong kế hoạch kinh doanh. Đặc biệt với các doanh nghiệp siêu nhỏ, công ty khởi nghiệp, hoạt động trong lĩnh vực công nghệ… không có tài sản thế chấp thì không thể nào vay được vốn từ ngân hàng. Muốn thế chấp hàng tồn kho hay như dịch vụ bao thanh toán thì lãi suất, phí quá cao khiến nhiều doanh nghiệp cũng không thực hiện. Hơn nữa, hoạt động cho vay thế chấp hàng tồn kho chỉ áp dụng đối với một số ít loại hàng hóa nhất định như nguyên vật liệu, nông sản… nên cũng hạn chế số doanh nghiệp tiếp cận.
Vì vậy, theo TS Lê Đạt Chí, để tháo gỡ điều kiện tiếp cận vốn cho doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo theo các tiêu chuẩn, an toàn cho hệ thống tài chính ngân hàng nói chung, NHNN phải đánh giá phân loại mức độ rủi ro của các loại tài sản để làm thế chấp vay vốn từ ngân hàng. Việc phân loại càng chi tiết càng dễ để các ngân hàng áp dụng. Đồng thời, khi nền kinh tế đang cần gia tăng hấp thụ lượng vốn ở nhiều lĩnh vực ưu tiên thì cũng phải đưa hệ số rủi ro cho vay đối với các lĩnh vực này xuống thấp hơn.
Hồi cuối tháng 9/2023, tại Hội nghị kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp TP. Hà Nội, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, NHNN và ngành ngân hàng nói chung rất chia sẻ với những khó khăn của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện nay Luật tổ chức tín dụng quy định các tổ chức tín dụng yêu cầu khách hàng vay vốn phải cung cấp tài liệu chứng minh phương án dự án khả thi, khả năng tài chính để đảm bảo khả năng trả nợ, mục đích sử dụng vốn đúng mục đích.
Theo Thống đốc, Thông tư hướng dẫn của NHNN cũng quy định như vậy. Tuy nhiên, NHNN không quy định khoản vay bắt buộc phải có tài sản bảo đảm (thực tế các tổ chức tín dụng vẫn cho vay tín chấp nếu khách hàng chứng minh được khả năng trả nợ). NHNN cũng không quy định tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo và không quy định tài liệu khách hàng phải cung cấp cho tổ chức tín dụng để chứng minh đủ điều kiện vay vốn.
Theo đó, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đề nghị các ngân hàng rà soát, thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, tiết giảm chi phí, giảm lãi suất, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tham mưu để có thể điều chỉnh tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo an toàn hệ thống.
Nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công điện yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ lại, nghiên cứu thủ tục cho vay thông thoáng và giảm lãi suất cho vay, triển khai quyết liệt, hiệu quả chương trình tín dụng 120.000 tỷ đồng cho vay đối với chủ đầu tư và người mua nhà của các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh triển khai gói tín dụng 15.000 tỷ đồng cho lĩnh vực lâm sản, thủy sản; đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, rà soát, kiên quyết cắt giảm thủ tục hành chính không còn phù hợp gây tốn kém, phiền hà, tăng chi phí cho người dân, doanh nghiệp. Thực hiện quyết liệt, mạnh mẽ, hiệu quả các giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng, nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, tăng cường hơn nữa kết nối ngân hàng – doanh nghiệp; tiếp tục hỗ trợ, chia sẻ hiệu quả khách hàng gặp khó khăn, thúc đẩy phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh…