RCEP giúp doanh nghiệp Việt có cơ hội tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực
(DNTO) - Hiệp định RCEP có thể mang lại một số cơ hội cho Việt Nam, tạo thị trường lớn tiềm năng cho xuất khẩu; được hưởng lợi từ việc gia tăng chất lượng hàng nhập khẩu cho tiêu dùng. Đặc biệt, doanh nghiệp Việt có cơ hội tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực.
Những cơ hội từ Hiệp định RCEP
Tại Hội thảo thực hiện hiệu quả Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam, diễn ra sáng nay 20/1, bà Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho biết: Năm 2020, dù đại dịch Covid-19 hoành hành, nhưng Việt Nam vẫn nỗ lực thực hiện mục tiêu kép: Vừa phòng chống dịch, vừa phát triển kinh tế, đồng thời tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đã đạt được một số kết quả nổi bật.
Cụ thể, Việt Nam chủ trì thành công năm ASEAN 2020, phê chuẩn và thực thực hiện EVFTA, và ký kết Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực RCEP.
“Việc đàm phán RCEP song song với 2 hiệp định FTA có chất lượng cao và/hoặc quy mô lớn vào bậc nhất thế giới: CPTPP và EVFTA, đòi hỏi không ít nỗ lực, hoạt động điều phối và cân nhắc. Hiệp định RCEP được kỳ vọng sớm đi vào thực hiện và cải thiện tiếp cận thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam”, bà Minh nói.
Trình bày báo cáo nghiên cứu về thực hiện hiệu quả Hiệp định RCEP, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban nghiên cứu tổng hợp, CIEM nhấn mạnh: Khác với CPTPP và EVFTA, RCEP không có các chương như môi trường, lao động, doanh nghiệp Nhà nước… Tuy nhiên so với các FTA ASEAN+1 khác, thì RCEP đã đưa vào không ít nội dung mới, gần với các FTA thế hệ mới như thương mại điện tử, cạnh tranh, mua sắm chính phủ…
Theo ông Dương, đối với hoạt động thương mại của Việt Nam, RCEP có thể mang lại một số cơ hội và cả thách thức. Bao phủ vùng lãnh thổ với 30% dân số toàn cầu, hiệp định RCEP tạo ra một thị trường lớn tiềm năng cho xuất khẩu.
Với nhập khẩu, Việt Nam cũng có thể được hưởng lợi từ việc gia tăng chất lượng hàng nhập khẩu cho tiêu dùng. Cùng với việc gia tăng thương mại hàng trung gian, doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực.
Đối với đầu tư nước ngoài, RCEP cũng có cả cơ hội và thách thức đan xen nhau. Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI từ sự dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc do tác động của chiến tranh thương mại, công nghệ Mỹ - Trung, cũng như xu hướng cân nhắc mới trong và sau đại dịch Covid-19.
Và những thách thức
Báo cáo chỉ ra rằng, Hiệp định RCEP cũng có những thách thức cũng không nhỏ, bởi nhìn nhận và xử lý hiệu quả nhập siêu gắn với đầu tư nước ngoài ở thị trường RCEP là một thách thức lớn, thậm chí trở nên phức tạp hơn.
Thứ nữa, sàng lọc chất lượng của dự án FDI là chủ trương đúng, nhưng thực hiện không dễ sau khi RCEP đi vào thực thi. Kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài từ hệ lụy đối với kinh tế vĩ mô vẫn là một vấn đề phức tạp. Bên cạnh đó là khó khăn trong cân đối giữa thu hút, bảo vệ nhà đầu tư và quyền xây dựng chính sách của Việt Nam.
“Những thách thức này ít nhiều đều ảnh hưởng đến mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam, song vẫn có thể xử lý được. Dù vậy, xử lý thách thức về thể chế phụ thuộc vào mức độ toàn diện trong cách tiếp cận của Việt Nam, và khó có thể hiệu quả nếu nhìn nhận vấn đề thương mại và đầu tư nước ngoài một cách rời rạc khi thực hiện RCEP”, ông Dương nói.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng: RCEP có tác động tốt hơn với CPTPP. Nhưng đứng từ góc độ thương mại, theo bà Trang, RCEP có thể gây khó khăn đối với công tác hội nhập.
“Lo ngại về nhập siêu từ RCEP rất lớn. Nói đến RCEP là nguy cơ hàng hóa từ Trung Quốc và các nước ASEAN tràn vào Việt Nam, điều đó kéo theo nguy cơ tăng gian lận thương mại, tăng thặng dư thương mại của Việt Nam với các đối tác lớn. Ở góc độ thể chế, RCEP có tiêu chuẩn về thể chế thấp thì liệu có làm giảm động lực cải cách của Việt Nam?”, bà Trang đặt vấn đề.
Đồng quan điểm, ông Lê Xuân Bá, Chuyên gia kinh tế bày tỏ: Nếu chúng ta cứ mải mê theo RCEP, chúng ta sẽ phải trả giá đắt. Việt Nam hiện có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ lao động hạn chế. Nếu theo tư duy nhiệm kỳ, cứ nhìn vào RCEP thì tương lai sẽ phải trả giá đắt.
“Hiệp định RCEP có tiêu chuẩn về thể chế thấp, trong khi các doanh nghiệp của ta chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nếu cứ đi theo các tiêu chuẩn dễ này thì thực sự nguy cơ”, ông Bá nói.
Đưa ra cách tiếp cận để thực hiện hiệu quả Hiệp định RCEP gắn với bảo đảm mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã đưa ra 5 nhóm giải pháp chính: Thứ nhất, tiếp tục thực hiện cải cách đối với nền tảng kinh tế vi mô nói chung, bao gồm cả chính sách cạnh tranh, môi trường kinh doanh, các thị trường nhân tố sản xuất.
Thứ hai, đặt chính sách đầu tư ở vị trí trung tâm, gắn sâu xa hơn về một tư duy định hướng, khả thi về một số ít ngành cần ưu tiên phát triển, các ngành cần thúc đẩy tự do cạnh tranh, mức độ tham gia chuỗi giá trị ở khu vực RCEP, và mức độ tự chủ trong thu hút, sử dụng các dự án FDI từ khu vực RCEP.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách thương mại, nhất quán với chính sách đầu tư, qua đó góp phần xử lý hiệu quả, hài hòa hơn vấn đề nhập siêu và nhập khẩu hàng trung gian, đồng thời phù hợp với sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị khu vực RCEP.
Thứ tư, xử lý các điểm nghẽn về hạ tầng và nguồn nhân lực, trong đó có sự tham gia của các nhà đầu tư và đối tác nước ngoài ở trình độ phù hợp.
Cuối cùng, điều quan trọng là phòng chống hiệu quả đại dịch Covid-19. Báo cáo cũng nhấn mạnh phải thực hiện cải cách ngay, thay vì chờ đến khi đại dịch Covid-19 kết thúc.