Bộ trưởng Bộ Công thương: Không quá lo ngại về khả năng tăng nhập siêu sau Hiệp định RCEP
(DNTO) - Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) kí kết mới đây được kì vọng giúp kinh tế Việt Nam bứt tốc. Doanh Nhân Trẻ Việt Nam có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh về cơ hội và thách thức của Việt Nam khi RCEP đi vào thực thi.
PV: Bộ trưởng có thể đánh giá sơ bộ về Hiệp định RCEP, ý nghĩa và tác động mang lại đối với Việt Nam và ASEAN?
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh: Thứ nhất, Hiệp định RCEP, khi được 15 thành viên thực thi, sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỉ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP gần 27 nghìn tỉ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu.
Hiệp định RCEP được kí kết sẽ hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới, tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam. Cùng với các FTA trước đây, Việt Nam cùng một số nước ASEAN đang trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế. Các lợi ích này thường mang ý nghĩa lâu dài cho nền kinh tế.
Thực hiện Hiệp định RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp..., góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, việc này đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam còn cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước.
Theo đánh giá của quốc tế, cho đến nay, hai cơ chế có thể trở thành hình mẫu trong hợp tác của toàn bộ khu vực châu Á – Thái bình Dương: thứ nhất là Hiệp định RCEP và thứ hai là Hiệp định CPTPP. Cả hai cơ chế này đều được quyết định trong năm Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và APEC. Việt Nam đã đóng góp tiếng nói vào việc định hình cho các cơ chế hợp tác mới cũng như luật chơi của khu vực, tăng cường vị thế của đất nước.
Theo Bộ trưởng, những thách thức, yêu cầu đặt ra cho Việt Nam sau khi ký kết Hiệp định RCEP là gì?
Trước hết, Hiệp định RCEP cũng có có thể mang đến sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam. Nhiều đối tác trong khu vực RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam nhưng năng lực cạnh tranh mạnh hơn, trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn.
Ngoài ra, hiện đầu vào sản xuất của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhất định vào các nguồn nhập khẩu, trong khi khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực còn hạn chế cũng như mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu của Việt Nam còn khá khiêm tốn.
Tuy nhiên, kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua cho thấy khả năng của Việt Nam tham gia vào các chuỗi giá trị mới thiết lập trong khu vực ngày càng tăng lên.
Đồng thời, Việt Nam đang có những đổi mới mạnh mẽ về thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và cải thiện môi trường đầu tư.
Cam kết của Việt Nam trong Hiệp định RCEP như thế nào? Có khác biệt gì so với các FTA đã có, đặc biệt các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, thưa Bộ trưởng?
Các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định RCEP được xây dựng trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối.
Hiệp định RCEP được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của tất cả các nước tham gia nên dù không gian kinh tế rộng hơn, dân số lớn hơn nhưng RCEP cũng có nhiều linh hoạt cho các nước tham gia hơn.
Tuy nhiên, Hiệp định RCEP đã thống nhất được một số lĩnh vực mới chưa được cam kết trong các FTA của ASEAN trước kia như: thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm của Chính phủ, với nội dung và mức cam kết phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam và các nước ASEAN khác.
Nhìn chung, Việt Nam đạt được mức độ cam kết hài hòa trong Hiệp định RCEP, cao hơn các FTA giữa ASEAN và các đối tác ngoại khối hiện có, nhưng thấp hơn các FTA thế hệ mới như Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hay Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) mà Việt Nam tham gia.
Thưa Bộ trưởng, liệu việc Việt Nam ký kết Hiệp định RCEP có làm tăng nguy cơ nhập siêu từ một số nước thành viên RCEP không?
Trong suốt quá trình đàm phán Hiệp định RCEP, chúng tôi đều tham vấn chặt chẽ các bộ ngành liên quan và doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kết quả đàm phán phải đảm bảo lợi ích cao nhất của Việt Nam.
Thực tế, Việt Nam đã tham gia với các nước ASEAN và 5 nước đối tác trong RCEP theo các hiệp định FTA giữa nội khối ASEAN, cụ thể là hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), và các FTA giữa ASEAN với từng đối tác trong số 5 đối tác trên (gọi là các hiệp định FTA ASEAN+1).
Vì vậy, quá trình tự do hoá thuế quan với các nước ASEAN đã được thực hiện trong suốt hơn 20 năm qua và với 5 nước đối tác trên là trong vòng khoảng 15 năm qua. Vì vậy, việc thực hiện hiệp định RCEP sau khi được thông qua sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam.
Hiệp định RCEP về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 5 đối tác với ASEAN trong một Hiệp định FTA. Ví dụ, doanh nghiệp sẽ chỉ phải sử dụng 1 quy tắc xuất xứ thay vì 5 bộ quy tắc xuất xứ riêng ở các FTA trước đây. Tương tự, các quy tắc về thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại cũng được thống nhất và tăng cường.
Do đó, về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, Việt Nam không quá lo ngại về khả năng tăng nhập siêu.
Không những thế, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên sẽ có nhiều cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng mới do Hiệp định RCEP tạo ra, nếu có thể khai thác triệt để lợi ích do Hiệp định này mang lại.
Bộ trưởng cho biết lộ trình thực hiện RCEP như thế nào và các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để tận dụng những ưu đãi từ hiệp định này?
Dự kiến, các nước sẽ dành khoảng 18 tháng để các bên tham gia ký kết thông qua hiệp định. Trong quá trình phê chuẩn, Bộ Công thương sẽ phối hợp với các bộ, ngành xây dựng kế hoạch hành động chi tiết để triển khai hiệp định.
Các doanh nghiệp, hiệp hội cần chủ động tìm hiểu thông tin về hiệp định, cần thay đổi tư duy kinh doanh, lấy sức ép cạnh tranh là động lực để đổi mới.
Doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin và tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác trong hiệp định, để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn, chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn, chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực.