Giải phóng những điểm nghẽn đang 'ghìm chân' nền kinh tế
(DNTO) - Dịch Covid-19 đã làm thay đổi tất cả, rất nhiều những thách thức đặt ra, trở thành rào cản đang hiển hiện trong đời sống kinh tế, xã hội. Cơ cấu lại nền kinh tế phải giải quyết cho được những mâu thuẫn nội tại đang ngăn cản sự phát triển.
Cần "thanh lọc" 3 trụ cột để tái cấu trúc
Phát biểu tại Diễn đàn "Tái cấu trúc nền kinh tế giai đoạn 2021-2025: Những vấn đề đặt ra với doanh nghiệp", chiều 14/12, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương, nhận định, kế hoạch tái cơ cấu kinh tế lần này xác định thể chế, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo là 3 "trụ cột" đột phá. Nếu trì hoãn hoặc chậm tái cơ cấu nền kinh tế thì Việt Nam sẽ rất khó để thu hẹp khoảng cách phát triển với thế giới, vượt qua bẫy thu nhập trung bình...
"Bối cảnh thế giới và trong nước thay đổi sâu sắc sau dịch bệnh Covid-19 yêu cầu Việt Nam phải thúc nhanh hơn quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Phải tạo sự thay đổi rõ nét trong mô hình tăng trưởng theo hướng dựa vào tăng năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh, hiệu quả sử dụng nguồn lực, tính tự chủ và khả năng thích ứng của nền kinh tế, từng bước hướng tới nền kinh tế dựa vào khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững...", bà Minh nói.
Đáng chú ý, bối cảnh dịch Covid-19 đã cho thấy những bất cập và khó khăn khi thiếu vắng các thể chế tạo động lực cho liên kết vùng, liên kết ngành nghề. Chính vì vậy, gắn kết, tạo động lực phát triển kinh tế vùng, tạo ra lực đẩy cho vùng kinh tế đô thị cũng đã được đặt ra trong kế hoạch tái cơ cấu lần này.
Một điểm nữa được bà Minh cho rằng cần chú ý là huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực hiệu quả. Việc huy động và sử dụng mọi nguồn lực cho phát triển, “trong đó nguồn lực bên trong là chiến lược, cơ bản, lâu dài, quyết định. Song song với đó, sử dụng nguồn lực bên ngoài là yếu tố quan trọng”, bà Minh nhấn mạnh.
Đồng thời, cần chuyển đổi cơ cấu từ chiều rộng sang chiều sâu, từ thang giá trị thấp lên thang giá trị cao, thâm nhập thị trường khu vực và thế giới. Đặc biệt, cần ưu tiên ngành trong tương quan với khu vực và quốc tế, tăng vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Chia sẻ thêm về mục tiêu của Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, bà Minh cho biết, cần đạt được sự bứt phá về năng lực cạnh tranh của các ngành kinh tế chủ lực, phải có sự chuyển biến thực chất rõ nét về mô hình tăng trưởng; sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp có sự phát triển và nâng cao sức chống chịu và thích ứng trước những diến biến phức tạp từ bên trong cũng như bên ngoài. Đặc biệt, cần hình thành rõ những cơ cấu hợp lý trong từng ngành từng lĩnh vực; cũng như có sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao...
Cần nhiều “đầu tàu”
Nêu quan điểm, TS. Lê Duy Bình, Chuyên gia Kinh tế, Giám đốc Economica Việt Nam, nhận định, tình trạng năng suất thấp và tốc độ tăng năng suất thấp của nền kinh tế có liên quan tới thực trạng phần lớn các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ. Đặc biệt, việc thiếu doanh nghiệp cỡ vừa, tức các doanh nghiệp có quy mô trung bình có số lượng rất ít ỏi, là một thực tế đáng quan ngại.
"Có nhiều bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp tư nhân lớn hơn và được quản trị tốt hơn ở Việt Nam có xu hướng tăng tích cực về hiệu quả hoạt động và năng suất. Rõ ràng, Việt Nam cần đặt trọng tâm chính sách vào việc phát triển ngày càng nhiều công ty lớn và được quản trị tốt hơn, thay vì chỉ hướng vào mục tiêu hình thành quá nhiều doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Bên cạnh vai trò góp phần quan trọng cho cải thiện năng suất lao động, các doanh nghiệp lớn còn đóng vai trò dẫn dắt hoặc thúc đẩy tăng trưởng của cả một ngành hoặc một cụm doanh nghiệp", ông Bình cho hay.
Cũng theo ông Bình, hiện tượng thiếu doanh nghiệp cỡ vừa cũng cho thấy sẽ không có nhiều doanh nghiệp quy mô vừa sẽ phát triển thành doanh nghiệp quy mô lớn trong trung hạn. Do đó, vấn đề thiếu doanh nghiệp cỡ vừa cần phải được giải quyết do nguyên tắc thường thấy là các công ty lớn hơn có khả năng tốt hơn để tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô để hoạt động hiệu quả hơn và mang lại năng suất cao hơn cho nền kinh tế.
Theo đó, ông Bình cho rằng, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và khu vực tư nhân là một trong những cấu phần quan trọng để tăng cường năng lực quốc gia của Việt Nam.
"Chính phủ cần tập trung mạnh mẽ hơn vào chất lượng tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân, thay vì chỉ tập trung vào mục tiêu tăng hàng trăm ngàn doanh nghiệp trong những thập niên sắp tới. Trọng tâm chính sách của Chính phủ cần nhấn mạnh vào các chỉ tiêu về chất lượng tăng trưởng...Ví dụ như năng suất tại cấp độ doanh nghiệp, quy mô của doanh nghiệp, trình độ công nghệ được ứng dụng, trình độ sáng tạo, hiệu quả hoạt động tài chính và khả năng kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu...", ông Bình cho hay.
Ngoài ra, theo ông Bình, kinh nghiệm thành công của nhiều quốc gia phát triển cho thấy, nhân lực có kỹ năng, nhất là những người có tay nghề cao có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần tạo ra năng suất lao động vượt trội, thúc đẩy tăng trưởng GDP và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
"Lao động có kỹ năng được coi như đơn vị tiền tệ mới trong thị trường lao động toàn cầu. Các quốc gia phát triển trong khối G20, hay ở Châu Âu, điển hình như Cộng hòa liên bang Đức, dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực công nghiệp nặng và công nghệ cao với năng suất lao động vượt trội nhờ có 1 hệ thống đào tạo nghề tiên tiến và hiệu quả - mẫu hình để nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu và học tập", ông Bình dẫn chứng và cho rằng, cần nâng cao chất lượng nhân lực có kỹ năng nghề cho phát triển đất nước trong từng giai đoạn.
"Trong trạng thái bình thường mới, chính kỹ năng lao động sẽ giúp các doanh nghiệp, các ngành có công nghệ mới, năng suất lao động cao phục hồi và phát triển mạnh mẽ sẽ giúp nền kinh tế không những nhanh chóng thoát khỏi suy thoái mà còn đồng thời đi vào tăng trưởng theo chiều sâu, bền vững", ông Bình nhấn mạnh.