Chủ động nâng sức đề kháng hơn nữa cho kinh tế Việt Nam để vượt các 'cú sốc' bên ngoài
(DNTO) - Trong bối cảnh nền kinh tế đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, để nền kinh tế “về đích”, đạt tốc độ tăng trưởng như mong đợi, việc chuẩn bị sẵn sàng các giải pháp để ứng phó với các biến động bất thường chính là điều cần thiết trong lúc này.
Tại phiên thảo luận của Quốc hội ngày 28/10, các đại biểu cho rằng, áp lực lạm phát có xu hướng tăng gây thách thức đối với nhiệm vụ kiểm soát lạm phát ngay từ đầu năm 2023. Kinh nghiệm thế giới cho thấy nếu không có giải pháp kiểm soát kịp thời thì lạm phát sẽ trở thành rào cản ngược đối với tăng trưởng kinh tế.
"Trong thời gian tới việc giảm lãi suất cho vay cũng khó có thể thực hiện được do các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục tăng lãi suất nhanh và mạnh, cùng với lạm phát trong và ngoài nước có xu hướng tăng, chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ và tăng lãi suất điều hành của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) gây sức ép lớn đến tỷ giá Việt Nam", Đại biểu Nguyễn Hải Dũng, Đoàn ĐBQH tỉnh Nam Định, trăn trở.
Lo ngại này hoàn toàn có cơ sở khi từ tháng 3/2022 đến nay, Fed đã liên tục với 5 lần tăng lãi suất, làm cho giá cả hàng hoá tính theo USD tăng cao. Điều này tác động tới lạm phát của nền kinh tế Việt Nam qua chi phí vốn tăng, giá nguyên nhiên vật liệu thế giới tăng và tỷ giá hối đoái tăng.
Đặc biệt, 70% giá trị trao đổi thương mại quốc tế của Việt Nam được thực hiện qua USD nên khi đồng USD tăng giá làm cho sức ép về nhập khẩu lạm phát và lạm phát chi phí đẩy gia tăng. Bên cạnh đó, chi phí vận chuyển và chi phí logistic thế giới vẫn ở mức cao cũng ảnh hưởng tới lạm phát phát trong nước.
Không những thế, nhìn lại công bố báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý III và 9 tháng năm 2022 mới đây từ Tổng cục thống kê cho thấy ngoài những con số tích cực, thì không thể phủ nhận, sự chậm lại đáng kể của các động lực tăng trưởng đã hiện hữu.
Đơn cử, GDP quý III năm nay tăng 13,76% là do so sánh với nền tăng trưởng thấp của cùng kỳ năm trước. Quý III năm ngoái, GDP tăng trưởng âm 6,17%. Như vậy, thực tế GDP quý III/2022 chỉ tăng hơn 7% nếu nền kinh tế năm ngoái không bị sụt giảm. Tất nhiên, đó vẫn là một con số thể hiện sự hồi phục tích cực của nền kinh tế. Song điều này là chưa đủ để khẳng định cho một tương lai bền vững, bởi nếu nhìn kỹ hơn, chúng ta có thể thấy các động lực tăng trưởng đang gặp phải những vấn đề, những rủi ro không hề nhỏ.
Trong đó, phải kể sự mong manh của "lá chắn" xuất khẩu, đã có những dấu hiệu cho thấy sự suy giảm xuất khẩu và thậm chí là khả năng thâm hụt trong cán cân thương mại hàng hóa là rất cao - khi nhiều doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh của ta như dệt may, da giầy, đồ gỗ… phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt đơn hàng, thậm chí bị hủy đơn hàng đã ký trong những tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023 do cắt giảm tiêu dùng bởi áp lực lạm phát của nhiều quốc gia. Doanh nghiệp sẽ “ngấm đòn” từ quý IV năm nay và kéo dài đến quý I năm sau.
Tiếp đến là về đầu tư, con số tuyệt đối giải ngân đầu tư công 9 tháng năm nay tăng cao so với năm trước (tăng 16,3%), tuy nhiên vẫn chưa đạt kế hoạch Chính phủ giao. Cùng với đó, tâm lý bất an bao trùm thị trường chứng khoán. Chúng ta thấy kênh trái phiếu gần như thất thủ, kênh cổ phiếu thì khủng hoảng, kênh tín dụng thì bị khóa room đồng thời lãi suất lại tăng, gói hỗ trợ lãi suất 2% thì các ngân hàng thương mại không quá mặn mà, thậm chí lo ngại thực hiện vì sợ sau này bị thanh, kiểm tra. "Khát vốn", khả năng chống chịu của doanh nghiệp sẽ yếu đi. Nếu không cải thiện được tình trạng này, sức khỏe của cộng đồng doanh nghiệp sẽ rất đang lo ngại.
Bên cạnh đó, có một điểm cần lưu ý là nếu so với con số tăng trưởng vài chục phần trăm trong các tháng trước, đà tăng của vốn điều chỉnh và vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đang có xu hướng chững lại trong giai đoạn gần đây. Đặc biệt, là đà suy giảm của dòng vốn đăng ký mới giảm 5,4% so với cùng kỳ năm 2021, cho thấy nhà đầu tư đang do dự trong việc rót vốn vào Việt Nam.
Tiêu dùng cũng không thực sự tạo đột phá. Sau những tháng đầu năm, tiêu dùng bứt phá, vì tâm lý “tiêu dùng trả thù” hậu Covid-19, đến nay tiêu dùng đã trở lại với trạng thái bình thường, thậm chí có phần đuối hơn trước đó.
Như vậy, chúng ta thấy cả xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng - thế "kiềng 3 chân" đều đang phát đi những tín hiệu không mấy lạc quan, báo hiệu cho sự chậm lại của tăng trưởng trong quý IV/2022, thậm chí là trong năm tới.
Bối cảnh này đòi hỏi những tính toán cho tương lai – cả trên bàn nghị sự Quốc hội và trong hoạt động điều hành của Chính phủ phải hết sức thận trọng và theo sát diễn biến tình hình thế giới cũng như phản ứng chính sách của các nền kinh tế lớn.
Theo đó, tăng sức chống chịu của nền kinh tế luôn là nhiệm vụ và giải pháp là mục tiêu quan trọng nhưng càng quan trọng hơn trong bối cảnh năm 2023 được dự báo là còn rất nhiều rủi ro bất định. Trong khi đó, sức chống chịu của nền kinh tế Việt Nam theo nghiên cứu và nhận định của một số chuyên gia thì “chỉ ở mức trung bình-khá”.
"Sức chống chịu và khả năng thích ứng là yếu tố vô cùng quan trọng, tạo hệ thống phòng vệ vững chắc bảo vệ nền kinh tế - tài chính, hệ thống doanh nghiệp và thị trường trong nước”, TS.Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia, nhận định.
Chính sách tài khóa và tiền tệ đang nỗ lực ra sao?
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh Fed liên tục tăng lãi suất, kinh tế Việt Nam có độ mở lớn và không phải là “ốc đảo”. Vì vậy, Việt Nam phải đối mặt với thực tế này và chấp nhận tác động của kinh tế thế giới để chủ động giải pháp nhằm giảm thiểu thấp nhất tác động tiêu cực đối với kinh tế Việt Nam.
Cụ thể, trong một tháng qua, Ngân hàng Nhà nước đã hai lần tăng lãi suất điều hành, nới rộng biên độ điều chỉnh tỷ giá. Chính phủ đã trình Quốc hội mục tiêu năm 2023 về tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% và lạm phát khoảng 4,5% đã phần nào phản ánh quan điểm nhìn nhận thực tế này.
Nêu quan điểm, Chuyên gia kinh tế TS. Nguyễn Bích Lâm, nhìn nhận, trong bối cảnh này, thực thi chính sách tiền tệ và tài khoá của Việt Nam cần đảm bảo các mục tiêu như giữ ổn định, đảm bảo tính thanh khoản, giảm thiểu dòng vốn gián tiếp chảy ra khỏi nền kinh tế. Đồng thời, giảm thiểu áp lực nhập khẩu lạm phát và lạm phát chi phí đẩy, giữ ổn định vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng.
Riêng với chính sách tài khóa, các chính sách được triển khai như giảm thuế VAT, 39 loại thuế phí, cũng như giảm thuế bảo vệ môi trường, thuế nhập khẩu xăng dầu để từ đó giúp các chi phí trong nền kinh tế giảm đi, đồng thời giữ lượng tiền tung ra thị trường không quá lớn. Như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nói, điều hành kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay phải rất linh hoạt, phù hợp và tế nhị, để việc điều hành như một nghệ thuật chứ không chỉ đơn thuần là về mặt công cụ.
"Bên cạnh đó, Chính phủ cần chủ động dự báo thị trường và biến động giá nguyên, nhiên vật liệu thế giới, đa dạng nguồn cung, không phụ thuộc vào một thị trường, cung ứng đủ nguyên nhiên vật liệu duy trì sản xuất ổn định.
Cùng với đó, cắt giảm chi phí logistics ngang bằng tỷ lệ của khu vực và thế giới. Khu vực doanh nghiệp cũng đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các ngành, lĩnh vực trong nước, nhằm chủ động cung cấp nguyên nhiên vật liệu, giảm bớt phụ thuộc vào nhập khẩu", ông Lâm cho hay.
Bên cạnh đó, ông Trương Hùng Long - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính cho rằng, Việt Nam đã có sự "cải cách" đáng chú ý về cấu trúc tài khoá, đặc biệt là nợ công. Điển hình là qua đại dịch, mức độ sẵn sàng về tài khoá để hỗ trợ khẩn cấp cho nền kinh tế của Việt Nam là tốt hơn so với các quốc gia trong khu vực. Nhờ đó mà nợ công không chịu áp lực đáng kể trong 2 - 3 năm qua. Do đó, dự báo tỷ lệ nợ công của Việt Nam, chưa tính bảo lãnh Chính phủ sẽ chỉ dao động ở mức 39% GDP trong vài năm tới".
Điều này đồng nghĩa với việc dư địa nợ công của Việt Nam còn tương đối "xông xênh", do có khoảng cách khá xa so với trần Quốc hội cho phép là 65% GDP.
"Chúng ta đã có nhiều biện pháp để "xốc" quản lý nợ công. Việc kiểm soát được nợ công và dư địa nợ công tương đối rộng để có sự co giãn trong thực hiện các chính sách", ông Long nhấn mạnh.
Đồng USD hiện đã tăng giá gần 20% so với đầu năm nhưng đồng Việt Nam chỉ sụt giá chưa bằng 1/4 mức này đã cho thấy hiệu quả trong sự nỗ lực của Chính phủ nhằm ổn định giá trị của đồng Việt Nam. Nhờ vậy, Việt Nam hiện là một trong những quốc gia ít ỏi trên thế giới có chính sách lãi suất cao hơn tỷ lệ lạm phát. Nền kinh tế vĩ mô ổn định sẽ giúp Việt Nam trở thành "vùng an toàn kinh tế" trong số các nền kinh tế thị trường mới nổi trên thế giới.