Bài toán về quy tắc xuất xứ vẫn đang làm khó ngành dệt may Việt Nam
(DNTO) - Trong quý 1/2021, tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU, nhằm mục đích tận dụng ưu đãi thuế quan, chưa đạt được mức kỳ vọng khi chỉ chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này.
Tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 còn thấp
Theo thống kê của Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, tính từ ngày 1/8/2020 (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu - EVFTA có hiệu lực thực thi) đến ngày 31/12/2020, kim ngạch hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang EU cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O mẫu EUR.1) theo hiệp định này đạt 216 triệu USD.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sử dụng C/O mẫu EUR.1 trong năm 2021 đã đạt 199 triệu USD, có sự gia tăng so với năm 2020, nhưng con số này vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nói chung sang thị trường EU (chỉ chiếm gần 30% kim ngạch xuất khẩu quý 1/2021).
Như vậy, tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU nhằm mục đích tận dụng ưu đãi thuế quan chưa đạt được mức kỳ vọng.
Đáng chú ý, dưới tác động của dịch Covid-19, các đơn hàng may mặc có xu hướng giảm trong thời gian qua. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam chuyển dịch sang sản xuất và xuất khẩu khẩu trang (bao gồm cả khẩu trang y tế và khẩu trang thường) sang thị trường các nước EU, trở thành mặt hàng xuất khẩu sử dụng C/O mẫu EUR.1 nhiều nhất trong năm 2020 (chiếm 18,2%) và quý I năm 2021 (chiếm 17,2%).
Trong khi đó, các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như quần dài, áo jacket, đồ lót, quần short lại có tỷ lệ sử dụng C/O mẫu EUR.1 tương đối thấp.
Quy định xuất xứ đang làm khó doanh nghiệp dệt may
Theo Cục Công nghiệp, Bộ Công thương, hiện các quy định phức tạp về quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định EVFTA, cũng như hạn chế về năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước để phục vụ sản xuất xuất khẩu, vẫn đang là những thách thức lớn đối với ngành dệt may Việt Nam khi tham gia sân chơi chung với khối EU.
Thông thường, có hai nguyên nhân chính dẫn đến việc hàng hóa xuất khẩu không sử dụng C/O để hưởng ưu đãi thuế quan, đó là hàng hóa đó đã có thuế suất cơ sở nhập khẩu rất thấp hoặc bằng 0%, hoặc hàng hóa đó không đáp ứng được quy tắc xuất xứ theo hiệp định.
Trong biểu thuế nhập khẩu của EU, số lượng mặt hàng dệt may có thuế suất cơ sở là 0% rất ít, hầu hết thuế suất hàng dệt may của EU dao động từ 3% đến 12%.
Lộ trình cắt giảm thuế mà EU dành cho hàng dệt may Việt Nam tối đa là 7 năm. Trong năm đầu khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, một số mặt hàng dệt may có lộ trình cắt giảm thuế dài sẽ có thuế suất cao hơn so với thuế suất tương ứng đang được áp dụng trong GSP.
Trong khi đó, EU cho phép hàng xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục được áp thuế GSP, ngay cả khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực với lộ trình 7 năm. Do đó, nhiều doanh nghiệp vẫn sẽ tiếp tục lựa chọn cơ chế GSP thay vì EVFTA khi xuất khẩu hàng dệt may sang EU.
Bên cạnh đó, quy tắc xuất xứ hàng dệt may trong Hiệp định EVFTA được đánh giá là chặt chẽ hơn so với nhiều hiệp định mà Việt Nam đang tham gia (như Hiệp định ATIGA hay các Hiệp định ASEAN+), khi được xây dựng trên quy tắc “hai công đoạn”, nghĩa là vải sử dụng để cắt may thành quần áo phải có xuất xứ từ EU hoặc Việt Nam.
Đồng thời, đối với hàng hóa là nguyên liệu dệt may, Hiệp định EVFTA quy định cụ thể các công đoạn cần thực hiện để hàng hóa được coi là có xuất xứ, không đơn thuần là tiêu chí Chuyển đổi mã số hàng hóa như tại một số hiệp định khác mà Việt Nam đang tham gia.
Trong khi ngành dệt may của Việt Nam nhập khẩu kim ngạch lớn vải nguyên liệu từ nhiều thị trường trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản… thì lượng vải nguyên liệu nhập khẩu từ EU lại rất khiêm tốn (133,55 triệu USD, chiếm 1,12% kim ngạch nhập khẩu vải năm 2020).
“Như vậy, sản phẩm dệt may của Việt Nam chỉ có thể dùng vải có xuất xứ EU hoặc vải được sản xuất trong nước để làm nguyên liệu sản xuất hàng dệt may xuất khẩu đi EU. Tuy nhiên, công suất sản xuất vải trong nước hiện vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất xuất khẩu của ngành dệt may đi EU nói riêng, cũng như đi toàn thế giới nói chung” - Cục Công nghiệp cho biết.
Ngoài việc có thêm các quy định mới, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định EVFTA còn có cách diễn đạt các tiêu chí xuất xứ cũng khác so với các hiệp định mà Việt Nam đang tham gia. Chính vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp mới xuất khẩu sang EU theo Hiệp định EVFTA, gặp phải nhiều bỡ ngỡ trong việc đọc và hiểu các quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa tại hiệp định này.
Một nguyên nhân khác được Cục Công nghiệp chỉ ra là việc chưa áp dụng ngay quy tắc cộng gộp vải nguyên liệu có xuất xứ Hàn Quốc (quy tắc cộng gộp vải Hàn Quốc) trong quá trình sản xuất hàng dệt may của Việt Nam từ ngày Hiệp định EVFTA có hiệu lực cũng phần nào khiến cho kim ngạch dệt may xuất khẩu có sử dụng C/O ưu đãi chưa cao.
Hiện quy tắc cộng gộp vải với Hàn Quốc được chính thức áp dụng từ ngày 1/3/2021. Những lô hàng dệt may đã được xuất khẩu sang EU trước ngày 1/3/2021 mà sử dụng vải Hàn Quốc trong quá trình sản xuất vẫn được đề nghị cấp sau C/O mẫu EUR.1 theo quy định của Hiệp định EVFTA.
“Quy tắc cộng gộp vải Hàn Quốc được thực hiện sẽ mở rộng cơ hội cho hàng dệt may đáp ứng quy tắc xuất xứ và hưởng ưu đãi thuế quan từ hiệp định khi Hàn Quốc là nước nhập khẩu vải nguyên liệu lớn thứ hai của Việt Nam” - Cục Công nghiệp nhấn mạnh.
Dệt may cần nỗ lực hơn nữa
Như vậy, trong ngắn hạn, theo Cục Công nghiệp, việc đáp ứng quy tắc xuất xứ cho hàng dệt may xuất khẩu sang EU để được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định EVFTA sẽ vẫn còn là hạn chế đối với ngành dệt may Việt Nam.
Trong dài hạn, khi mức thuế suất hàng dệt may tiếp tục được cắt giảm sâu, tạo động lực cho ngành, cũng như việc hình thành các chuỗi sản xuất khép kín từ nguyên liệu thô đến thành phẩm hoàn thiện cuối cùng sẽ giúp ngành dệt may Việt Nam tận dụng hiệu quả hơn nữa các ưu đãi từ Hiệp định EVFTA mang lại.
Để đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng dệt may xuất khẩu sang EU, Cục Công nghiệp khuyến cáo, về lâu dài, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có kế hoạch đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất vải nguyên liệu trong nước, không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Ngoài ra, để có thể áp dụng một cách chuẩn xác, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải hiểu rõ và hiểu đúng quy định về quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định EVFTA.