Thứ trưởng Phùng Đức Tiến: Ngành thuỷ sản cần có tầm nhìn, không được 'ăn đong'
(DNTO) - "Cần có tầm nhìn chiến lược phát triển ngành thuỷ sản theo từng giai đoạn, sẵn sàng đối diện với những thách thức, biến động, không được "ăn đong". Có như vậy mới nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của ngành hàng" - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định.
Nâng tầm chiến lược, tính chuyện "đường dài" cho ngành thuỷ sản
Ngành Thủy sản hiện là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam với quy mô ngày càng mở rộng. Thương hiệu thủy sản Việt Nam không chỉ khẳng định trong nước mà còn được đón nhận bởi nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, việc định hướng chiến lược phát triển cho ngành theo từng giai đoạn trước những biến động của thị trường thế giới là điều thực sự cần thiết.
"Cần có tư duy mới, cách làm và phương pháp mới, đặc biệt, cần có tầm nhìn chiến lược phát triển ngành thuỷ sản theo từng giai đoạn, sẵn sàng đối diện với những thách thức, biến động, không được "ăn đong". Có như vậy mới nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của ngành hàng" - Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhận định.
Thủy sản Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới trên nền tảng những thành tựu nổi bật của giai đoạn trước, cùng những khó khăn tồn tại. Chính vì vậy, cần sớm xây dựng các phương án đối phó và phát triển cho ngành trong tầm nhìn dài hạn
"Hàng năm, chúng ta phải chịu áp lực tăng trưởng từ 5 - 6%. Nhưng dư địa nào cũng chỉ đến độ, thế nên rất cần có một chiến lược mới. Chiến lược này phải tập trung trí tuệ của tất cả các vùng miền. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ, miền Trung, miền Bắc; các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, các nhà khoa học, các chuyên gia… Tổng cục Thủy sản cần xắn tay cùng các đơn vị tư vấn để có được chiến lược đó" - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho hay.
Theo đó, ngành thủy sản cần được xây dựng thành ngành kinh tế có quy mô và tỷ suất hàng hóa lớn, có thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững. Hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển có trách nhiệm theo hướng kinh tế tuần hoàn, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản theo định hướng thị trường, thân thiện môi trường, bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, bảo tồn đa dạng sinh học; thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học, an sinh xã hội.
Phát triển thủy sản gắn với nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân, xây dựng nông thôn mới; kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh trên biển vững mạnh.
Thu hút các nguồn lực, các thành phần kinh tế đầu tư phát triển thủy sản hiệu quả với lực lượng doanh nghiệp là nòng cốt. Tập trung đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng đồng bộ; đào tạo, bồi dưỡng, phát triển, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực; ưu tiên ứng dụng công nghệ cao.
Mục tiêu chung đến năm 2030 cần phải phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của quốc gia, sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển bền vững và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; có cơ cấu và hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; có thương hiệu uy tín, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Tầm nhìn đến năm 2045, thủy sản phải là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững, là trung tâm chế biến thủy sản sâu, thuộc nhóm 3 nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới; giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu các ngành kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển.
Để thực hiện được những kỳ vọng phát triển trong tương lai, ngành thủy sản cũng cần quan tâm đến chính sách chuyển đổi nghề cá khai thác gần bờ của ngư dân sang phát triển nuôi biển, qua đó vừa bảo vệ, tái tạo nguồn lợi tự nhiên, vừa phát triển nghề theo hướng bền vững.
Song song với đó, cần có chiến lược liên kết chuỗi và tiêu thụ sản phẩm; đảm bảo từ khâu con giống đầu vào, quá trình sản xuất và bao tiêu sản phẩm.
Ngoài ra, Việt Nam vẫn đang nỗ lực thực hiện triệt để cam kết chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) với mục tiêu tháo gỡ thẻ vàng EU, vì sự phát triển bền vững của ngành khai thác và chế biến thủy sản.
“Chúng ta phải bàn bạc kỹ lưỡng, bám vào từng mục tiêu, giải pháp cụ thể để thực hiện. Nền tảng cho ngành thủy sản là nguồn lực đã được chuẩn bị cơ bản, đó cũng là điều kiện tiên quyết và khó khăn nhất, quyết định "vận mệnh" của ngành" - Thứ trưởng Tiến nhấn mạnh.
Xuất khẩu thuỷ sản theo mô hình kinh tế tuần hoàn để "cán đích" 9 tỷ USD
Trong bối cảnh nhiều quốc gia đẩy mạnh tiêm vaccine, ngày càng kiểm soát tốt dịch Covid-19, cùng với thị trường xuất khẩu (XK) thuận lợi hơn do thực thi các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), XK thủy sản của Việt Nam từ nay đến hết năm có nhiều cơ hội để bứt phá, đặc biệt tại các thị trường XK trọng điểm. Dự báo, XK thủy sản cả năm sẽ cán đích khoảng 9 tỷ USD.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tính đến hết tháng 4/2021, XK thủy sản của cả nước ước đạt trên 2,5 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Năm 2020 và 2 tháng đầu năm 2021, do ảnh hưởng của Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng, đặc biệt là phân khúc logistics. XK thủy sản của Việt Nam đã có những thời điểm sụt giảm hoặc chững lại. Từ tháng 3/2021, XK thủy sản Việt Nam bắt đầu hồi phục rõ rệt với tăng trưởng 17% so với cùng kỳ. Sang tháng 4, XK bứt phá mạnh hơn với mức tăng trưởng gần 30%, đạt gần 800 triệu USD.
Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản đánh giá, nhu cầu nhập khẩu tôm của thế giới tăng trở lại, đặc biệt ở những thị trường lớn. Trong khi nguồn cung tôm từ một số quốc gia như Ấn Độ và một số nhà cung cấp khác sẽ giảm do chịu tác động xấu từ dịch Covid-19.
“Dự báo, XK tôm của Việt Nam trong những tháng tiếp theo vẫn đạt kết quả tăng trưởng tốt do có nhiều lợi thế từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và đảm bảo được sự ổn định trong nuôi trồng, sản xuất khi kiểm soát tốt dịch Covid-19” - ông Nguyễn Quốc Toản đánh giá.
Bên cạnh đó, nguồn cung cá tra đang ổn định đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XK cá tra nửa đầu năm 2021. Do đó, trong quý 3/2021 cần tập trung đẩy mạnh XK cá tra tới những thị trường lớn và truyền thống là Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc và ASEAN. Ngoài ra, những thị trường đang phục hồi là Nga và Anh, các doanh nghiệp cũng cần đặc biệt lưu ý.
Theo các chuyên gia phân tích, đối với thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, EU, dự báo XK thủy sản chưa thể phục hồi mạnh. Các thị trường khác như Australia, Canada, Anh, Nga sẽ tiếp tục là những điểm sáng mới cho XK thủy sản nửa cuối năm vì nhu cầu đang gia tăng và không gặp rào cản thị trường.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhận định: Để mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản đạt 9 tỷ USD, không cách nào khác phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ về giống, nuôi trồng, thú y phòng bệnh và bảo quản sau thu hoạch, đồng thời xây dựng được hệ thống quản lý, truy xuất nguồn gốc xuất xứ thủy sản và quản lý hiệu quả việc nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, cần cơ cấu lại các doanh nghiệp chế biến, XK thủy sản theo mô hình kinh tế tuần hoàn, theo chuỗi và nâng cao giá trị.
"Từ đầu năm đến nay, cá tra, tôm đều là những mặt hàng có trị giá XK gia tăng đáng kể. Sự chủ động, tích cực của các doanh nghiệp trong mở rộng thị trường dưới sự hỗ trợ, tạo điều kiện của ngành chức năng là yếu tố quan trọng làm nên kết quả khả quan trong XK toàn ngành nói chung, thủy sản nói riêng" - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.