Quốc hội chính thức thông qua nâng hạn visa điện tử lên 90 ngày
(DNTO) - Quốc hội đồng ý kéo dài thời hạn thị thực (visa) điện tử từ 30 ngày lên 90 ngày, có giá trị nhập cảnh nhiều lần; thống nhất nâng thời hạn tạm trú tại cửa khẩu cho người nhập cảnh theo diện đơn phương miễn thị thực từ 15 ngày lên 45 ngày…
Sáng 24/6, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2023.
Theo đó, Quốc hội đồng ý kéo dài thời hạn thị thực (visa) điện tử từ 30 ngày lên 90 ngày, có giá trị nhập cảnh nhiều lần; nâng thời hạn tạm trú tại cửa khẩu cho người nhập cảnh theo diện đơn phương miễn thị thực từ 15 ngày lên 45 ngày.
Trước đó, ông Lê Tấn Tới, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu về thời hạn thị thực điện tử và nâng thời hạn tạm trú tại cửa khẩu cho người nhập cảnh trong dự án Luật này.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã rà soát, chỉnh lý các quy định về thời hạn của thị thực để thống nhất thay đổi cách tính "tháng" bằng tính "ngày", trường hợp thời hạn 12 tháng được tính là 1 năm. Còn thị thực có giá trị nhiều lần là loại thị thực cấp cho người nước ngoài, được sử dụng để nhập xuất cảnh Việt Nam nhiều lần trong thời hạn của thị thực.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng luật đã nâng thời hạn thị thực điện tử lên đến 90 ngày, có giá trị một lần hoặc nhiều lần nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài muốn vào Việt Nam nghiên cứu, khảo sát thị trường, tìm kiếm, xúc tiến đầu tư, nhất là các trường hợp có nhu cầu đi đến nhiều nước trong khu vực và quay lại Việt Nam để đánh giá, so sánh về khả năng mở rộng đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
Đồng thời chỉ đạo cơ quan soạn thảo bổ sung vào tài liệu gửi Quốc hội dự thảo Nghị quyết về danh sách các nước, vùng lãnh thổ có công dân được cấp thị thực điện tử; danh sách các cửa khẩu quốc tế cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử. Ngay sau khi luật được thông qua và có hiệu lực, Chính phủ sẽ ban hành Nghị quyết để kịp thời triển khai trong thực tiễn.
Về nâng thời gian cấp chứng nhận tạm trú tại cửa khẩu từ 15 ngày lên 45 ngày, nhiều ý kiến nhất trí với dự thảo Luật; một số ý kiến đề nghị làm rõ căn cứ của quy định 45 ngày; đề nghị tăng lên 60 hoặc 90 ngày. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, việc nâng thời hạn đơn phương miễn thị thực lên 45 ngày là đạt mức trung bình trong khu vực, qua đó, sẽ nâng cao tính cạnh tranh trong khu vực của Việt Nam trong thu hút du khách; tạo thuận lợi hơn nữa cho khách du lịch quốc tế. Do vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ nguyên như dự thảo Luật do Chính phủ trình.
Đối với Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, trong đó, về giấy tờ xuất nhập cảnh, một số ý kiến đề nghị quy định cụ thể giấy tờ khác theo quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; ý kiến khác đề nghị bổ sung “thông tin khác do Chính phủ quyết định” để đảm bảo linh hoạt trong áp dụng pháp luật. Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho bổ sung “thông tin khác do Chính phủ quy định” vào giấy tờ xuất nhập cảnh cấp cho công dân Việt Nam.
Đối với trường hợp hủy giá trị sử dụng của hộ chiếu còn thời hạn bị mất hoặc không đến nhận. Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, bổ sung hình thức trả hộ chiếu bằng thư bảo đảm hoặc hình thức chuyển phát khác; bổ sung hình thức công khai thông tin về hộ chiếu chưa đến nhận; đề nghị chỉ hủy khi không có thông báo bằng văn bản về lý do chưa đến nhận hộ chiếu.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho bổ sung nội dung “và không có thông báo bằng văn bản cho cơ quan chức năng về lý do chưa nhận hộ chiếu” vào dự thảo Luật. Luật hiện hành đã có quy định hình thức trả hộ chiếu bằng hình thức chuyển phát để đảm bảo thuận lợi cho công dân, cho phép công dân lựa chọn hình thức nhận hộ chiếu phù hợp. Do hộ chiếu có chứa các thông tin về nhân thân của công dân, nếu công khai sẽ ảnh hưởng đến quyền bảo mật thông tin của công dân.