Người chiến sĩ áo trắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ

(DNTO) - 70 năm đã trôi qua nhưng nhắc lại những tháng ngày tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, với ông – người chiến sĩ áo trắng Nguyễn Văn Minh luôn là những ký ức không bao giờ quên của một thời gian khổ nhưng rất đỗi tự hào.

Ông Nguyễn Văn Minh kể lại những giây phút không bao giờ quên khi tham gia cứu thương trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954
Dù đã bước sang tuổi 97, năm nay 76 tuổi Đảng, Y sĩ Nguyễn Văn Minh dường như không quên một chi tiết nào khi kể về những kỷ niệm và từng phút giây hiểm nguy trong công tác cứu thương cho bộ đội. Ông thuộc lực lượng “đi trước, về sau” bảo đảm công tác điều trị, luôn sát cánh trên mọi chiến trường và có nhiều sáng tạo phục hồi sức khỏe cho các chiến sĩ.
1. Ngày 15/3/1954, nhận lệnh tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, Y sĩ Nguyễn Văn Minh cùng đoàn công tác có mặt tại Đội điều trị giã chiến số 9, cây số 15 trên đường lên Điện Biên Phủ do anh Bạch Quốc Tuyên, sinh viên năm cuối Đại học Y làm đội trưởng (sau này là GS. Viện trưởng Viện Huyết học và Truyền máu). Đoàn điều trị có 3 ban: Ban trọng thương, là những thương binh bị chấn thương sọ não, gãy xương, tổn thương lớn bên trong cơ thể. Ban này do chị Vũ Thị Phan, sinh viên năm thứ 4 Trường đại học Y (sau này là GS. Viện trưởng Viện sốt rét – Ký sinh trùng, Bộ Y tế) làm Trưởng ban; Y sĩ Nguyễn Văn Minh làm Trưởng ban Trung thương và Khinh thương (thương binh nhẹ). Số lượng thương binh trong hai ban này khoảng 200 người, sau khi được điều trị ổn định về sức khỏe lẫn tinh thần, họ sẽ quay trở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Được tham gia chiến dịch lớn và trực tiếp điều trị cho thương binh ở phía sau tiền tuyến là ký ức không bao giờ quên trong cuộc đời Y sĩ Nguyễn Văn Minh. Ông kể lại, lực lượng quân y tham gia chiến dịch lúc bấy giờ hầu hết là sinh viên ngành y. Hành trang họ mang ra chiến trường ngoài các tài liệu được ghi chép trên ghế nhà trường là tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ. “Chúng tôi lúc ấy còn rất trẻ, chưa vững nghề nên phải vừa điều trị cho thương binh, vừa đọc sách, hướng dẫn nhau cách mổ, cách làm thuốc ngay trên chiến trường, nhờ vậy cứu chữa thành công cho thương binh chiếm tỷ lệ rất cao”, ông Minh cho biết.
Nhớ lại giây phút nghe tin chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng vào chiều ngày 7/5/1954, ông kể: “Tôi chạy thẳng lên đồi, chụm hai tay lên miệng làm loa hò reo thật to cho đồng đội biết: Chiến thắng rồi! Chúng ta đã giải phóng Điện Biên Phủ rồi các đồng chí ơi! Trong những hầm hào, lán trại, từ lượng lượng quân y đến các thương binh đều nghẹn ngào, hạnh phúc, nước mắt tuôn trào.

Từng khoảnh khắc lịch sử được ông cẩn thận ghi chép lại. Đó là những chi tiết quý giá có giá trị mãi với các thế hệ sau này
2. Sau ngày giải phóng Điện Biên Phủ, các thương binh vừa và nhẹ của Đội giã chiến số 9 được vận chuyển về tuyến sau bằng ô tô chở gạo lên mặt trận. Còn lại 80 thương binh nặng phải vận chuyển bằng cáng theo đường bộ. Yêu cầu đặt ra, phải gấp rút thành lập Đoàn cáng thương bộ đội song song việc hồi sức khẩn trương, đưa những người bị thương nặng trở về xuôi điều trị. Lúc này, đội đã có sẵn hai Tiểu đoàn dân công, các cáng thương được huy động tối đa, gạo nước, thực phẩm, nồi xoong cũng đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc di chuyển thương binh về hậu phương.
Đội cáng thương được thành lập do chị Vũ Thị Phan làm Đội trưởng, ông Nguyễn Văn Minh làm Chính trị viên kiêm Bí thư chi bộ. Trong số 80 thương binh nặng, đội dự kiến sẽ đưa 72 thương binh nặng về hậu phương, còn 8 thương binh tiên lượng rất xấu, rất ít hy vọng có thể sẽ không qua khỏi dọc đường di chuyển. Ngày 12/5, Đoàn nhận được lệnh di chuyển vào ban đêm để tránh máy bay địch bắn phá, cứ đi năm đêm thì nghỉ một đêm. Sau bốn lần nghỉ, tức là sau 20 ngày đêm di chuyển sẽ về đến hậu phương. Tính toán là vậy, nhưng trên đường đi, Đoàn đã gặp phải vô vàn khó khăn, trắc trở. Ngay chặng đầu tiên phải vượt đèo Pha Đin vào ban đêm. Khi vừa đến đỉnh đèo thì gặp mưa rất to, hạt mưa xối xả, nặng trịch quất thẳng vào mặt, vào da thịt từng thành viên cáng thương và cả thương binh đang nằm cáng. Gió rít ầm ầm, thổi tung áo mưa, mũ nón và vật dụng bay khỏi cáng. Để bảo vệ thương binh, anh em trong Đoàn ngồi quây lại thành vòng tròn, lấy thân mình che chắn gió thốc và mưa lạnh cho thương binh cho đến sáng. Khi mưa tạnh Chính trị viên Nguyễn Văn Minh hối thúc mọi người nhanh chóng đến trạm nghỉ dưới chân đèo trước khi trời sáng để tránh địch phát hiện.
Mới qua hai ngày đêm di chuyển không ngủ, vất vả, căng thẳng, ăn uống thiếu thốn, không chỉ thương binh mà ngay cả nhân viên cáng thương, dân công gần như đã kiệt sức, Chính trị viên Nguyễn Văn Minh rất thương anh em và tìm cách tổ chức lại công tác phục vụ. Đến chặng thứ 4 đi trong đêm, ông nảy ra ý tưởng táo bạo và bàn ngay với đồng chí Đoàn trưởng Vũ Thị Phan cùng ba cán bộ chính trị của Đoàn: Sẽ chia Đoàn làm ba cụm, cố gắng không làm xáo trộn nhiều các cáng. Cụm một gồm 20 cáng thương binh nặng nhất của Tiểu đoàn 1; Cụm hai có 30 cáng của Tiểu đoàn 2; Cụm ba có 30 cáng của hai tiểu đoàn còn lại. Không gọi tổ theo thứ tự như trước đây nữa mà biến mỗi tổ cáng là một gia đình, tổ trưởng sẽ là “anh cả” và lấy tên “anh cả” làm tên gia đình. Thương binh là “em út”, “em út” đi đánh giặc bị thương, các “anh chị” thay mặt “bố mẹ” ở xa nhận trách nhiệm chăm sóc cứu chữa cho em mình, phấn đấu làm sao cho em khỏe mạnh, vết thương chóng lành để về với “bố mẹ”. Mọi việc chăm sóc, khẩu phần ăn và thuốc men như thế nào đều giao cho “gia đình cáng thương” toàn quyền quyết định.
Bằng cách này, mọi người trong Đoàn đều rất vui vẻ, thoải mái, tình cảm ngày càng khăng khít như anh em một nhà. Trong suốt hành trình, Đoàn chỉ phải để lại trạm một thương binh quá nặng do bị vết thương sâu ở đầu, bị nhiễm trùng huyết. 7 trong 8 thương binh tiên lượng xấu ban đầu đã qua cơn nguy hiểm, sức khỏe ổn định có thể hòa vào đoàn 72 thương binh nặng còn lại trở về để các bệnh viện hậu phương tiếp tục điều trị.

Ông Nguyễn Văn Minh (thứ 3 từ trái qua) trong ngày gặp mặt đầu tiên sau 40 năm của những người còn lại lớp Y tá Vệ Quốc đoàn Chính Quy khoá 1 tốt nghiệp đầu năm 1946.
3. Hoàn thành nhiệm vụ cứu thương trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Cục quân y chuyển ông Nguyễn Văn Minh sang làm công tác cán bộ trong ngành Quân y. Ông đã đi nhiều nơi, có mặt ở khắp các chiến trường, phụ trách việc tuyển chọn, đào đạo bác sĩ cho các mặt trận. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ông trở về làm ở Vụ tổ chức cán bộ - Bộ Y tế cho đến năm 1988 thì nghỉ hưu.
Năm 2004, kỷ niệm 50 năm giải phóng Điện Biên Phủ, ông Nguyễn Văn Minh đã quay trở lại Điện Biên và cơ duyên được bay cùng chuyến bay, được thăm lại các trận địa xưa cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong ký ức của ông, vị đại tướng tài ba của Quân đội Việt Nam thật giản dị, gần gũi, giàu tình yêu thương. Ông tự hào và hạnh phúc vì tuổi trẻ của mình được là người lính quân y, được tham gia một chiến dịch lừng lẫy năm châu do vị đại tướng kính yêu làm Tổng tư lệnh chỉ huy.
Theo thống kê của Ban Quân y Chiến dịch Điện Biên Phủ, Chiến dịch Điện Biên Phủ huy động khoảng 10 đội điều trị, mỗi với quân số hơn 100 người cùng 500 dân công. Vượt qua những khó khăn gian khổ, lực lượng quân y đã cứu chữa cho hơn 10.000 lượt thương binh, gần 4.500 bệnh binh. Hàng ngàn thương binh, bệnh binh nhẹ đã được điều trị khỏi trong vòng 10 ngày, trở lại đơn vị chiến đấu, góp phần quan trọng vào việc khôi phục sức mạnh chiến đấu của các đơn vị trên toàn mặt trận.