Ngân hàng phải tìm dư địa tăng vốn 'cửa' nào để lấp đầy room cho vay?
(DNTO) - Câu chuyện tăng vốn cho ngân hàng được xem như một trong những nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh cũng như cơ hội kinh doanh, nhất là thời điểm hiện nay khi lạm phát gia tăng dồn sức ép lên thanh khoản trong khi vẫn phải nghe ngóng chờ nới room.
Nhu cầu vốn lớn đang dồn lên vai các ngân hàng
Hiện nay, cơ quan quản lý vẫn đang kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, dù bối cảnh nền kinh tế hồi phục trong năm nay đòi hỏi nhu cầu vay vốn rất lớn. Điều này khiến các ngân hàng sẽ phải co kéo tín dụng cho vay trong những tháng cuối năm.
Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cũng nhận định, những số liệu chung có thể “che lấp” đi nguy cơ dễ bị tổn thương của một số ngân hàng thương mại, trong đó có những ngân hàng có tỷ lệ an toàn vốn thấp. Trong khi đó, dự báo của một số chuyên gia, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 2,3-2,5% năm 2022, nợ xấu gộp có thể tăng cao tới 7,1-7,7%, đặc biệt là nửa cuối năm 2022 khi các quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Thông tư 14 hết hiệu lực.
Trong Báo cáo Điểm lại kinh tế Việt Nam tháng 8/2022 vừa công bố, WB nhận xét, dù tỷ lệ CAR (hệ số an toàn vốn - Capital Adequacy Ratio) của hệ thống ngân hàng tăng nhẹ lên 11,47% trong quý I/2022 (so với 11,3% trong quý I/2021), cao hơn yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước, nhưng vẫn tương đối thấp. Tỷ lệ CAR ở một số ngân hàng chỉ cao hơn một chút so với yêu cầu tối thiểu. Chính vì thế, các ngân hàng đang tích cực đẩy mạnh tăng vốn để khắc phục những rủi ro, thêm sức bật cho giai đoạn phát triển mới sau dịch.
Thống kê sơ bộ có tới hơn 20 nhà băng lên kế hoạch tăng vốn trong 2022, nhưng mới chỉ ít ngân hàng hoàn thành xong như VIB, ACB... Như vậy, từ nay đến cuối năm sẽ chứng kiến cuộc đua tăng vốn diễn ra dồn dập.
Làm "dày" vốn không chỉ là yêu cầu bắt buộc đối với các ngân hàng trong ngắn hạn mà cả trong trung, dài hạn. Nhưng việc các ngân hàng có thực hiện tăng vốn được như kế hoạch đặt ra trong năm 2022 hay không còn phụ thuộc vào nhiều biến số từ kinh tế vĩ mô, thị trường chứng khoán.
TS. Võ Trí Thành – thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính - Tiền tệ quốc gia nhận định, đây là bài toán rất thách thức đối với điều hành chính sách tiền tệ trong bối cảnh hiện nay. Hiện Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) và nhiều ngân hàng trung ương lớn đang tăng nhanh lãi suất khiến dòng vốn đầu tư cũng có xu hướng đảo chiều. Tất cả những điều đó đã và đang tác động tiêu cực đến đà phục hồi của kinh tế trong nước, đồng thời mang tới nhiều bất ổn kinh tế vĩ mô nói chung và điều hành chính sách tiền tệ nói riêng.
Do kinh tế thế giới khó khăn, các động lực tăng trưởng đang quay trở lại thị trường trong nước, khiến nhu cầu vốn lại càng cấp bách hơn bao giờ hết. Vì vậy, công tác điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước đang đứng trước thách thức.
“Việc lựa chọn chính sách của ngân hàng nhà nước lúc này là đầy thách thức do phải đối diện với nhiều biến số. Khi các trụ cột quan trọng của thị trường vốn chưa phục hồi, thì nhu cầu vốn cho nền kinh tế đang dồn cả lên vai các ngân hàng. Chính vì vậy, ngay cả đối với chương trình phục hồi kinh tế hay công tác điều hành trong thời điểm hiện tại, phần nào phải dựa nhiều hơn vào chính sách tài khoá vì nguồn thu còn tốt, ngân hàng cũng đồng thời phải đáp ứng các mục tiêu khác về ổn định vĩ mô", ông Thành nhận định.
Tìm vốn ở 'cửa' nào?
Trong quá trình điều hành, ngân hàng nhà nước luôn cập nhật và bám sát diễn biến lạm phát, tăng trưởng GDP, tình hình kinh tế trong, ngoài nước, tiến độ xây dựng, thực hiện Đề án Tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội…
Trong khi chưa có quyết định nới room, lãnh đạo ngân hàng nhà nước nhiều lần đề cập chuyện các ngân hàng tự thân vận động bằng cách sàng lọc và cơ cấu lại danh mục tín dụng theo chiều hướng lành mạnh hơn.
Nêu quan điểm, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhận định, các ngân hàng tiếp tục chịu áp lực tăng vốn trong giai đoạn tới. Các quy định về an toàn hoạt động kinh doanh ngân hàng trên thế giới đang theo hướng ngày càng thắt chặt và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng đó.
Sau Basel III, Basel 3,5 đang hình thành chính thức và Basel IV đang được nghiên cứu xây dựng. Đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam, dù vốn điều lệ của hệ thống tổ chức tín dụng tăng khá tốt các năm qua thông qua hình thức phát hành cổ phiếu để trả cổ tức, chào bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước, tuy nhiên, để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế thì vẫn chưa đạt.
“Các ngân hàng có thể tăng vốn thông qua tăng vốn cấp 1, tăng vốn cấp 2, vừa tăng vốn tự có vừa giảm tài sản rủi ro để cân đối tăng nguồn lực cho tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tăng tín dụng nóng như hiện nay thì ẩn số tăng trưởng tín dụng 2 quý cuối năm có thể chưa rõ ràng. Điều đó không làm kìm hãm các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ, vốn tự có không chỉ sẵn sàng cho năm nay mà cả năm sau”, ông Lực nhấn mạnh.
Ngoài trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành cổ phiếu cho người lao động (ESOP), để có nguồn lực tài chính vững vàng phục vụ cho nhu cầu dài hơi hơn, theo các chuyên gia kinh tế khuyến nghị, các ngân hàng cần tích cực gọi vốn ngoại, lấp đầy room ngoại.
Trong thời gian vừa qua, hoạt động ngân hàng Việt Nam khá vững trước những biến động, củng cố niềm tin nhà đầu tư. Minh chứng là các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế vẫn đánh giá tích cực các ngân hàng Việt.
"Đa phần các ngân hàng trên thế giới và trong khu vực hiện nay đã tuân thủ theo Basel III. Để đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của Basel III, các ngân hàng cần tăng vốn. Muốn làm được vậy, ngân hàng phải tìm đến nhà đầu tư có nguồn lực tài chính mạnh. Vì vậy, đã đến lúc Chính phủ cần xem xét lại tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng Việt Nam để tăng độ hấp dẫn”, các chuyên gia nhìn nhận.