Thấy gì từ việc ngân hàng tích cực làm dày 'bộ đệm' dự phòng để đối phó với rủi ro nợ xấu?
(DNTO) - Bất an với rủi ro nợ xấu khiến các ngân hàng phải chấp nhận hi sinh lợi nhuận để trích lập dự phòng nhiều hơn, coi đây là tấm khiên che chắn để tăng sức đề kháng. Song, chưa hẳn "bộ đệm" dày nghĩa là hệ thống ngân hàng đã nằm trong vùng an toàn.
Báo cáo tài chính quý II cho thấy những gam màu khác nhau trong kết quả kinh doanh của các ngân hàng. Trong khi nhiều ngân hàng tăng trưởng mạnh thì đã có 9 ngân hàng ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng âm, 1 ngân hàng lỗ trong quý II.
Cụ thể, tính đến ngày 30/6/2022, tổng nợ xấu nội bảng tăng lên mức hơn 146.000 tỷ đồng, tăng 17,5% so với đầu năm. Xét về số dư tuyệt đối, Ngân hàng Agribank đang có số dư nợ xấu cao nhất hệ thống với gần 30.000 tỷ đồng, tăng 22% so với thời điểm đầu năm.
Trong đó, điểm đáng lưu ý nhất là trong cơ cấu nợ xấu nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) ngày càng "phình" to, hay nói cách khác nợ xấu ngày càng "xấu".
Điển hình, đến thời điểm hiện nay, VPBank là ngân hàng đứng đầu về tổng nợ xấu với tổng nợ xấu ở thời điểm 30.6.2022 lên tới 20.624 tỷ đồng, tăng 27% so với đầu năm. Trong đó nợ có khả năng mất vốn của VPBank tăng hơn 240%, từ 2.046 tỷ đồng lên 4.970 tỷ đồng trong khi nợ nghi ngờ cũng tăng 20% lên 9.091 tỷ đồng.
VietinBank là ngân hàng xếp thứ nhì về số nợ xấu tuyệt đối (16.650 tỷ đồng); BIDV từng là quán quân nợ xấu khối ngân hàng TMCP, nay đã tụt hạng đáng kể, đứng vị trí thứ ba với trên 15.100 tỷ đồng.
Bức tranh nợ xấu trong các quý tới đã từng được giới chuyên gia dự báo sẽ ngày càng lộ diện rõ ràng hơn khi Thông tư 14 đã chính thức hết hạn. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong thời gian qua cũng là một trong những nguyên nhân khiến số dư nợ xấu tăng.
Theo đó, để tăng "sức đề kháng", các ngân hàng sẽ phải tăng trích lập dự phòng rủi ro nợ xấu, thị trường cũng đã quen với một số thành viên đạt từ 150-170%, thậm chí trên 200% và cá biệt trên 300%.
Như tại VPBank, chỉ trong nửa đầu năm, chỉ riêng ngân hàng này phải trích lập dự phòng rủi rui tín dụng tới hơn 9.700 tỷ đồng (tăng đáng kể so với con số 8.652 tỷ đồng cùng kỳ) và điều này khiến lợi nhuận trước thuế của ngân hàng giảm xuống còn 15.332 tỉỷ đồng dù tổng lãi thuần từ hoạt động kinh doanh đạt tới hơn 25.041 tỷ đồng.
Và thực tế trích lập dự phòng tùy thuộc vào khẩu vị rủi ro của mỗi nhà băng theo "cơ chế mềm". Bởi, tỷ lệ bao phủ nợ xấu chênh lệch lớn giữa các ngân hàng cho thấy sự khác biệt trong "khẩu vị" rủi ro mỗi ngân hàng.
Chẳng hạn, Ngân hàng Vietcombank dù có tỷ lệ nợ xấu 0,61% thấp nhất, song đây lại là quán quân với bộ đệm dày nhất dành cho dự phòng rủi ro khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên mức kỷ lục 506%.
Lãnh đạo Vietcombank từng nhiều lần chia sẻ rằng “cơm không ăn gạo còn đó”, việc tăng trích lập dự phòng không chỉ giúp ngân hàng có bộ đệm để xử lý rủi ro, mà còn là “của để dành” trong tương lai. Bởi sau khi quá trình xử lý nợ xấu hoàn tất, hoàn nhập dự phòng rủi ro cũng sẽ đóng góp tích cực vào lợi nhuận.
Điều này hoàn toàn có cơ sở khi nhìn vào báo cáo tài chính của các ngân hàng những năm gần đây, có thể thấy, hàng năm, nguồn lợi nhuận khác mà mỗi ngân hàng thu về lên tới hàng ngàn tỷ đồng, chủ yếu là từ thu hồi nợ đã xử lý bằng trích lập dự phòng rủi ro. Có ngân hàng thu về 11.000 tỷ đồng/năm từ nợ xấu đã được xử lý. Có ngân hàng đảo chiều từ tăng trưởng âm thành dương nhờ được hoàn nhập dự phòng rủi ro.
Song, ở góc nhìn chuyên gia, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng, cho rằng, không chủ quan khi các nhà băng công bố số liệu trích lập dự phòng lớn, nâng tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên mức cao. Con số này không có nghĩa hệ thống ngân hàng đã nằm trong vùng an toàn.
Đặt ra vấn đề, tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao được cho là tín hiệu tốt nhưng chỉ trên sổ sách, tức chỉ nằm trên bút toán. Ông Hiếu nhìn nhận, các khoản dự phòng rủi ro được công bố chưa chắc đều là dòng tiền thật được đưa vào trong quỹ, để khi xử lý nợ xấu ngân hàng lấy ra đền bù cho khoản nợ mất vốn.
Khoản dự phòng rủi ro cao sẽ là cách để ngân hàng đảm bảo với cổ đông, nhà đầu tư, các ngân hàng đang cho họ vay và cả với ngân hàng nhà nước, con số lợi nhuận trên sổ sách không bị tác động bởi nợ xấu. Nhưng các khoản được "xử lý" trên sổ sách bằng cách hạch toán này sẽ tiềm ẩn khả năng dòng tiền cho vay "mất thật" nếu nợ không thu hồi được. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự mất thanh khoản của ngân hàng, nhất là các nhà băng có quy mô nhỏ.
"Để bù trừ cho việc mất thanh khoản, các ngân hàng sẽ phải huy động "tiền tươi thóc thật" bù cho việc mất tiền thật từ cho vay trong những năm qua. Lãi suất huy động đang tăng và sẽ tiếp tục tăng. Điều này cũng giải thích cho việc tại sao nhiều ngân hàng không còn hạn mức để cho vay nhưng vẫn tăng lãi suất tiền gửi để tiếp tục phải huy động vốn từ người dân, các ngân hàng đạt lợi nhuận cao, nhưng đằng sau tấm bình phong lợi nhuận vẫn có rủi ro tiềm ẩn, cơ quan quản lý cần theo dõi kỹ vấn đề này", TS. Nguyễn Trí Hiếu nhận định.