Một góc chợ quê và món bánh cục nước cốt dừa
(DNTO) - Nỗi nhớ quê trong lòng kẻ xa quê như thể một thứ dây leo cứ bện vào nhau rối rắm. Trong rất nhiều nỗi nhớ, bao giờ tôi cũng dành riêng một nỗi niềm sâu lắng cho cái góc chợ quê bày bán những món bánh quê.
Chợ quê tôi bây giờ đã được xây cất khang trang, có gắn bảng tên chợ hẳn hoi. Trong nhà lồng, những ki-ốt mọc lên, những sạp hàng được kê ngang dọc, bày bán đủ các mặt hàng không thua gì siêu thị. Nhưng bên ngoài, cái chất của một phiên chợ quê vẫn không mất đi.
Ở đó, tôi được gặp gỡ mọi người, nghe một câu chào, một tiếng hỏi thăm, được mặc cả kì kèo, được thêm cọng hành trái ớt, thấy hả dạ. Ở đó, có mấy cái sạp tre bày bán vài nhúm cá tép vừa tát đìa, tháo đập chưa kịp lượm sạch rác, còn tươi xanh, nhảy soi sói; Vài mớ cải trời, rau má mọc ngoài bờ ruộng hay trái bầu trái mướp trồng che mát sân nhà… Ở đó, tôi được sống trong cái không gian rộn rã của những âm thanh quen thuộc: Tiếng mời chào chèo kéo dai như đỉa của mấy chị hàng tôm hàng cá, tiếng rao hàng dần lân nghe mắc cười không chịu nổi của anh bán đồ lạc son. Ở đó, lại ngửi thấy không biết bao nhiêu là mùi: Mùi tanh tưởi của thịt cá; Mùi hành phi của gánh cháo lòng, của xe hủ tiếu; Mùi nước cốt dừa béo ngậy, mùi lá dứa, mùi mạch nha, mùi nếp mới, mùi đường thốt nốt… từ dãy hàng bán bánh tỏa ra. Đặc biệt không lẫn vào đâu là cái mùi lá mơ của bánh cục.
Cái lá rau xanh xanh, tím tím, tới mùa, bông nở cánh trắng, nhụy màu tím phớt mọc hoang ở bờ rào, có cái tên nghe rất… “mộng mơ”: Lá mơ. Là mấy tay “sính chữ” gọi như thế nghe cho nó… đẹp, chứ trong dân gian, người ta vẫn hồn nhiên kêu nó là lá "thúi địt” một cách rất “nghiêm chỉnh”. Đơn giản vì lá khi bị giã giập ra sẽ có mùi “tượng khướu” như thế. Nhưng khi nhồi vào bột hấp chín lên thì phải nói là nó thơm lừng một mùi thơm vô cùng quyến rũ không thể ngờ. Nó làm nên thương hiệu bánh cục, chỉ có ở miền Tây, đặc biệt là Bến Tre - xứ sở của dừa, bởi vì nước cốt dừa cũng là một thành phần không thể thiếu của bánh cục. Còn tại sao kêu nó là bánh cục thì tôi chịu thua.
Các công đoạn làm bánh cục ngày nay đơn giản hơn rất nhiều vì các nguyên liệu hầu như có sẵn. Chúng ta dễ dàng tìm thấy các bịch bột chuyên dụng, nước cốt dừa ép sẵn bán đầy ngoài chợ hoặc trong siêu thị.
Không như ngày xưa, để chuẩn bị làm bánh cục, người ta phải chuẩn bị ngâm gạo từ tối hôm trước. Ngược lại với bột đổ bánh xèo được xay từ loại gạo mùa, khô nở, bột làm bánh cục phải chọn loại gạo ngắn ngày, mềm và có độ dẻo. Gạo vo sạch, ngâm qua đêm, xay bằng cối đá, bồng cho ráo nước. Lá rau mơ rửa sạch, xay nhuyễn, lọc lấy nước trộn chung với bột, dằn thêm chút muối, cho ra một hỗn hợp sền sệt vừa để có thể nắn trên lá.
Lá dùng để nắn bột làm bánh cục ưa dùng nhất là lá mít, bởi lá mít có độ dày và rộng vừa phải, khi bánh chín in hình những cái gân lá rất đẹp. Dừa khô nạo vắt cốt, dằn xíu muối, thêm đường sao cho có độ ngọt đậm đà, sau đó thắng trên lửa, có thể cho thêm ít bột cho có độ sánh. Lá mít sau khi được phủ một lớp bột mỏng thì cuộn tròn lại cho vào nồi hấp. Bánh cục khi chín, bột bánh trong, ngã sang màu xanh đen sậm, mịn dẽo và đặc biệt là rất thơm mùi đặc trưng của lá mơ.
Thật ra, làm bánh cục không khó nhưng ăn bánh cục sao cho đúng điệu mới thấm thía hết cái hồn vía của loại bánh chân quê này. Bày bánh ra dĩa, chang nước cốt lên rồi ăn bằng đũa hoặc bằng cây ghim, ấy là bạn đang hưởng thụ. Không phải vậy, người nhà quê ăn là một quá trình lao động thưởng thức. Sau khi cùng nhau, kẻ hái lá mơ, lá mít, người nạo dừa, nhóm bếp thì mọi người (thường là trẻ nhỏ) cùng xúm lại nắn bột vào lá. Bánh chín tới đâu gỡ ăn liền tới đó (vì thế nước cốt dừa phải được chuẩn bị trước). Cầm từng cái bánh chấm vào chén nước cốt dừa đưa lên miệng cắn một cái, miếng bánh còn nóng hôi hổi dẻo, thơm, ngọt, béo… Chèn ơi!
Nhớ hồi nhỏ mỗi lần về quê nghỉ hè, kiểu gì chị em tôi cũng nài cho được ngoại làm bánh cục. Mê nhất là cái đoạn mấy chị em tranh nhau vừa nắn, vừa gỡ, vừa ăn... Tôi lớn lên, ngoại già rồi mất. Ở chốn thị thành bao nhiêu là loại bánh nhưng mỗi lần muốn ăn bánh cục, tôi tìm đỏ mắt cũng không thấy có nơi nào bán. Thế là, thỉnh thoảng có dịp về quê, tôi lại chạy ù ra chợ. Cái góc chợ chỗ gian hàng bánh với hằng hà sa số nào bánh tét, bánh ít, bánh bò, bánh da lợn… tôi luôn chọn cho mình món bánh cục của bà Tư. Giờ ở đây, chỉ còn mình bà Tư là tự xay bột, nạo dừa làm bánh. Bà nói bà quen rồi, bà không ưa bột chợ, không thích cốt dừa pha bột béo. Bà sợ làm mất đi cái “hồn cốt” của món bánh.
Về lần này, nhìn đôi tay gân guốc quắc queo của bà Tư không còn nhanh nhẹn, vầng trán thêm nhiều nếp nhăn, mái tóc bạc trắng, tôi đâm nghĩ ngợi vẩn vơ. Hơn bốn mươi năm ngồi ở góc chợ quê, lớp người cùng thời với bà Tư không còn ai. Không biết món bánh cục làm bằng bột gạo tự xay của bà Tư có đi vào quá vãng? Tôi nhìn bà Tư, nhìn mâm bánh cục… rồi tôi đâm buồn ngang.