Hút ‘cá mập’ cho ngành điện gió
(DNTO) - Việt Nam cần nhiều hơn một phương án, có thể là “cơ chế phát triển nhanh", cơ chế đấu thầu, ưu đãi giá, để khởi động ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi.
"Bật công tắc" ngành công nghiệp điện giói
Copenhagen Infrastructure Partners (CIP), Tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi, đang nắm trong tay một số quỹ đầu tư năng lượng tái tạo (CI IV, Quỹ Thị trường mới I) với tổng tài sản hơn 19 tỷ USD.
Năm 2020, một Biên bản Ghi nhớ (MOU) đã được CIP cùng với 2 nhà đầu tư khác (AsiaPetro và Novasia Energy) kí với tỉnh Bình Thuận, để phát triển Dự án trang trại điện gió ngoài khơi La Gàn. Đồng thời, 3 nhà đầu tư này cũng thành lập Công ty Cổ phần Phát triển Dự án điện gió La Gàn.
Với công suất 3.5 GW, Dự án La Gàn là một trong những dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn đầu tiên tại Việt Nam, được kỳ vọng sẽ đưa Việt Nam trở thành “vùng trũng” hút đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Không dừng lại ở đó, “ông lớn” CIP còn có tham vọng “Bắc tiến” khi liên tiếp ký nhiều bản MOU với các nhà cung cấp và cảng biển tại Việt Nam, hợp tác với công ty nội là Xuân Cầu, để tìm cơ hội khai thác điện gió ngoài khơi ở miền Bắc nước ta.
Theo đánh giá, Việt Nam được xem là “miền đất hứa” để phát triển năng lượng gió, với khoảng 8% diện tích lãnh thổ (tương đương 112 GW) có tiềm năng năng lượng gió tốt.Tính đến cuối năm 2021, tổng công suất đăng ký đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam khoảng 154 GW.
Dự thảo Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu phát triển khoảng 16.121 MW điện gió trên bờ và gần bờ; khoảng 7.000 MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030. Đến năm 2045, công suất đặt điện gió ngoài khơi dự kiến đạt khoảng 64.500 MW.
Thế nhưng, cách đây vài hôm, 36 doanh nghiệp đầu tư các dự án điện mặt trời, điện gió đã phải gửi văn bản “kêu cứu” Thủ tướng, vì đã dốc hết vốn liếng để đầu tư nhưng chưa thể bán điện do vướng mắc về cơ chế giá. Hàng chục dự án điện gió nghìn tỷ đang "đắp chiếu" đã cho thấy, dù tiềm năng dồi dào, các nhà đầu tư cũng rất mạnh dạn đi trước để tạo lợi thế, nhưng những khoảng trống pháp lý còn đó gây nhiều rủi ro cho thị trường, có thể làm “chùn bước” những nhà đầu tư đến sau.
“Giờ là lúc Việt Nam tập trung khởi động ngành năng lượng tái tạo, cho phép thực hiện các dự án thí điểm, ban hành khung pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện để các nhà đầu tư phát triển dự án điện gió ngoài khơi”, ông Henrik Scheunemann, Co CEO Tập đoàn Copenhagen Offshore Partners, nhấn mạnh trong “Hội thảo thúc đẩy phát triển ngành điện gió ngoài khơi của Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và các gợi ý chính sách”, hôm 16/3.
Cần ít nhất 2 năm để ‘gỡ’ pháp lý
Theo ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, dù cơ hội lớn nhưng bài toán đặt ra cho phát triển điện gió ngoài khơi cũng không nhỏ. Chưa kể tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ, thì yêu cầu nguồn vốn lớn và dài hạn cũng như những vướng mắc về cơ chế, chính sách đầu tư, xây dựng, vận hành, cơ chế giá điện… vẫn còn nhiều điểm nghẽn.
“Qua theo dõi cho thấy, việc thể chế hóa và cụ thể hóa yêu cầu xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ và đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi nêu tại nghị quyết 55 được các cấp có thẩm quyền triển khai còn chậm, kết quả còn hạn chế”, ông Hiển nói
Vị Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng dẫn chứng việc chậm chạp trong ban hành chính sách, ví dụ Quy hoạch điện VIII và quy hoạch không gian biển vẫn đang xây dựng, chưa ban hành. Việc giao vùng biển để khảo sát phát triển điện gió ngoài khơi vẫn chưa được quy định cụ thể. Các quy định về hình thức lựa chọn nhà đầu tư chưa điều chỉnh được đối với các dự án nhà máy điện gió ngoài khơi.
Chưa kể, trong Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Điện lực và các văn bản hướng dẫn khác chưa bao quát được dự án điện gió ngoài khơi. Việc xây dựng cơ chế chính sách giá, khung giá cũng khó khăn, bất cập; còn thiếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn cho lĩnh vực này…
Để đạt mục tiêu 7 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030, theo ông Mark Huchinson, Chủ tịch Nhóm công tác khu vực Đông Nam Á, Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC), Việt Nam có thể thực hiện nhiều phương án như “cơ chế phát triển nhanh”, cơ chế đấu thầu, ưu đãi thông qua giá…
Tuy nhiên, xây dựng chính sách và cơ chế liên quan là chặng đường dài, có thể mất đến 2 năm để gỡ những khó khăn trong chính sách. Vì vậy, để không bị lỡ nhịp, ông Mark khuyến nghị Việt Nam nên tham khảo “cơ chế phát triển nhanh”, tức chọn một dự án thí điểm quy mô lớn, hoặc dành cơ chế đặc biệt cho một lượng công suất nhất định (4 GW). Cơ chế này giúp rút ngắn thời gian phát triển dự án, các rào cản chính sách nhanh chóng giải quyết, giảm chi phí sản xuất.
“Có thể thực hiện thí điểm từ 2-3 GW điện gió ngoài khơi thông qua các nguồn tài chính hỗn hợp. Các dự án sẽ không phải đợi quy hoạch không gian biển, quy trình cho thuê mặt biển, quy trình đấu thầu vì các quy trình đó cần có thời gian và có thể trì hoãn việc triển khai dự án”, ông Mark nói.
Ngoài ra, vị đại diện GWEC cho biết Việt Nam cần nghiên cứu ký thỏa thuận cung cấp điện dài hạn giữa hai bên (PPA), đồng thời đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư cho 3GW các dự án điện gió ngoài khơi…
Về phía Bộ Công thương, cơ quan giữ trách nhiệm chính trong việc quản lý ngành năng lượng, cho biết sẽ sớm trình Chính phủ về Dự thảo Quy hoạch điện 8 để tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển các nguồn điện và năng lượng tái tạo giai đoạn tới.