Cơ hội nào cho doanh nghiệp logistics sau các hiệp định?
(DNTO) - Những hiệp định thương mại tự do lớn như EVFTA, CPTPP hay RCEP mà Việt Nam đã kí kết sẽ sẽ tạo đà cho hoạt động logistics trong nước vươn mình mạnh mẽ nhưng cũng đem đến không ít thử thách khi doanh nghiệp logistics nội địa có sức cạnh tranh không cao.
Điểm sáng logistics sau các hiệp định
Phát biểu trong Diễn đàn Logistics Việt Nam 2020, sáng 26/11, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, việc Việt Nam kí kết các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) mang đến nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế.
Cụ thể, các hiệp định sẽ tác động tích cực đối với việc cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, doanh nghiệp và của nền kinh tế nhờ vào việc tiếp cận thị trường xuất khẩu có sự ưu đãi về thuế quan, tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, giảm được chi phí các yếu tố đầu vào bởi được chuyển giao công nghệ và nhập khẩu các yếu tố đầu vào rẻ hơn theo các điều kiện ưu đãi.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, các Hiệp định này có thể tác động tới triển vọng phát triển hoạt động logistics ở hai góc độ: cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực vận tải và phục vụ vận tải; cam kết trong các lĩnh vực góp phần tăng dung lượng thị trường dịch vụ logistics do tăng nguồn cầu dịch vụ, chất lượng dịch vụ, nhu cầu mở rộng công suất, đầu tư và thực hiện dịch vụ.
“Điểm sáng trong hoạt động thương mại thời gian vừa qua là xu hướng chuyển đổi thói quen mua sắm của người dân, ứng dụng mua sắm trực tuyến nhiều hơn. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình chuyển đổi số hóa trong lĩnh vực thương mại và logistics, đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp thương mại điện tử, cho hộ kinh doanh cá thể, cá nhân, ... nhờ việc giảm chi phí thuê cửa hàng, chi phí bán hàng trong khi lại mở rộng được thị trường trên môi trường mạng Internet”, Bộ trưởng Bộ Công thương nhấn mạnh.
Thách thức không nhỏ
Cũng theo Bộ trưởng Bộ Công thương, tác động của các Hiệp định EVFTA, CPTPP hay RCEP vừa mang đến cơ hội nhưng cũng kéo theo không ít thách thức, đặc biệt trong bối cảnh doanh nghiệp logistics nội địa có sức cạnh tranh không cao.
Việc thực thi các hiệp định thương mại tự do sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh; việc giảm thuế quan có thể khiến luồng hàng nhập khẩu từ các nước thành viên trong hiệp định vào Việt Nam gia tăng, tạo sức ép cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước.
Bổ sung quan điểm này, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, hiện chi phí dịch vụ logistics tại Việt Nam rất cao, (tương đương 30 - 40% giá thành sản phẩm, trong khi ở các nước khác chỉ 15%, theo Armstrong & Associates), điều này giảm sức cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp nội địa so với các đối thủ bên ngoài.
Ông Lộc chỉ ra vào ba vấn đề cơ bản khiến chi phí logistics còn thiếu tính cạnh tranh đó là: cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, và sự kết nối của doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài.
Về cơ sở hạ tầng logistics của Việt Nam, dù được cải thiện đáng kể trong 10 năm qua nhưng vẫn tồn tại những điểm nghẽn. Theo Niên giám thống kê vận tải và logistics Việt Nam 2019, tổng chiều dài đường bộ của Việt Nam là 630.564 km nhưng tổng chiều dài các đường cao tốc đang vận hành lại chưa đến 2.000 km.
“Với khoảng gần 80% lưu lượng hàng hóa của doanh nghiệp được vận chuyển bằng đường bộ, nhu cầu về những tuyến đường cao tốc hoàn thiện là rất cần thiết, đặc biệt là một trục chính có chất lượng cao như cao tốc Bắc – Nam”, ông Lộc cho biết.
Bên cạnh khó khăn từ vận tải đường bộ, ông Lộc cho biết, hệ thống đường sắt trong nước khá lạc hậu và thiếu kết nối vào các cảng hàng hóa. Hệ thống đường thủy nội địa chưa được chú trọng khai thác hiệu quả. Các hạ tầng kết nối đường bộ với cảng biển như cảng container nội địa (ICD), hay các trung tâm logistics đa phương tiện vẫn còn thiếu vắng.
Ngoài ra, theo ông Lộc thủ tục hành chính hành chính còn phức tạp, thiếu rõ ràng và chồng chéo, đặc biệt ở các thủ tục hành chính liên ngành có sự tham gia của nhiều cơ quan Nhà nước. Bên cạnh đó, chi phí không chính thức trong thực hiện thủ tục hành chính vẫn phổ biến góp phần khiến chi phí logistics nói chung tăng lên.
Không chỉ vậy, ông Lộc cũng cho hay, sự kết nối của doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài còn khá lỏng lẻo cũng là thách thức đối với sự phát triển của hoạt động logistics khi thị phần dịch vụ logistics Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn do các doanh nghiệp lớn của nước ngoài nắm giữ, doanh nghiệp trong nước chỉ có khoảng 25% thị phần.
“Dù doanh nghiệp trong nước am hiểu thị trường và thị hiếu của khách hàng nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa với năng lực không đồng đều và đi sau các doanh nghiệp FDI về trình độ công nghệ”, ông Lộc nhấn mạnh.
Vì vậy, theo vị chủ tịch của VCCI, việc tăng cường kết nối và xây dựng mạng lưới hợp tác với doanh nghiệp FDI là cần thiết để "khơi thông dòng chảy" logistics, thông qua học hỏi các công nghệ mới cũng như thúc đẩy việc hình thành các dịch vụ môi giới, trung gian trong ngành logistics là rất quan trọng.
“Các dịch vụ môi giới và trung gian trong logistics sẽ giúp doanh nghiệp trong nước tối ưu hóa hơn việc vận tải hàng hóa, bởi theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, khoảng 70% xe chở hàng chấp nhận chạy không tải ở chiều về vì không thể tìm được khách hàng. Đây là một trong những nguyên nhân khiến chi phí logistics của doanh nghiệp trong nước rất thiếu tính cạnh tranh”, ông Lộc chia sẻ.