Logistics Việt làm gì để nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu?
(DNTO) - Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, logistics là mạch máu của nền kinh tế, quyết định tính cạnh tranh của từng quốc gia, doanh nghiệp. Việt Nam được cho là đang nắm trong tay cơ hội vàng để phát triển logistics. Vậy logistics Việt cần làm gì để nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu?
Logistics Việt có triển vọng bùng nổ trong tương lai
Tại Hội nghị Thượng đỉnh kinh doanh Việt Nam 2020 và Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh và Đầu tư ASEAN 2020 (ASEAN BIS 2020), do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức mới đây, ông Trần Thanh Hải cho biết, trong những năm gần đây, thương mại quốc tế không ngừng phát triển nhờ xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế giữa các quốc gia ngày càng sâu và rộng, mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng và nền kinh tế nước nhà nói chung. Trong đó phải kể đến logistics, một lĩnh vực then chốt, đóng một vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế.
Tại các nước phát triển, doanh nghiệp ngày càng có xu hướng thuê ngoài nguồn nhân lực và vật chất tại các thị trường mới nổi như Đông Nam Á để tiết kiệm chi phí hiệu quả trong sản xuất. Trong đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường mới nổi hấp dẫn nhất với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, chi phí nguyên vật liệu rẻ, mức lương thấp hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, vị trí địa lý của Việt Nam cũng là một mắt xích quan trọng giữa các khu vực Đông Nam Á, Đông Nam Á và là đường liên kết biển quan trọng với thế giới.
Hơn nữa, ngành logistics Việt Nam cho thấy một ngành cạnh tranh, có triển vọng bùng nổ trong tương lai với tỷ trọng thấp ở mức 7,40%. Theo dữ liệu báo cáo của CRIF D&B Việt Nam năm 2019, về xu hướng tăng trưởng doanh thu, ngành logistics Việt Nam có xu hướng tăng trưởng tích cực và liên tục, trong đó doanh thu bán hàng tăng 6,8% từ 305.825 triệu đồng năm 2017 lên 325.294 triệu đồng năm 2018 và lên 332.634 triệu đồng vào năm 2019, tỷ suất lợi nhuận gộp cũng tăng từ 12,23% năm 2017 lên 12,46% năm 2018, lên mức cao nhất 12,68% năm 2019.
Ông Shige Sakaki, chuyên gia cao cấp phụ trách về giao thông vận tải Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết: “Từ vị trí thứ 64 cách đây hai năm, Việt Nam đã tăng lên vị trí thứ 39 trên toàn cầu trong bảng xếp hạng chỉ số hiệu suất dịch vụ logistics (LPI) năm 2018. Đây là con số đáng khích lệ”.
Được biết, chỉ số LPI của Việt Nam năm nay đứng trên các nền kinh tế có quy mô lớn hơn so với một số nước cùng khu vực như Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, trong ngành logistics có quy mô 4,3 nghìn tỉ USD trên toàn cầu.
“Việt Nam có hiệu suất dịch vụ logistics tốt hơn hẳn các thị trường có mức thu nhập tương đương”, đại diện World Bank đánh giá.
Dù có triển vọng bùng nổ trong tương lai, nhưng hiện tại ngành logistics Việt còn khá nhiều thách thức. Ông Lê Duy Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội logictics Việt Nam cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 4.000 - 4.500 doanh nghiệp cung cấp logistics trực tiếp và và có đến hơn 30.000 công ty liên quan, trong đó có khoảng hơn 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tại Việt Nam, chi phí cho logistics theo nghiên cứu của Hiệp hội hiện chiếm khoảng 16,8% - 17% GDP, tương đương về quy mô thì khoảng 42 tỷ USD, đóng góp khoảng 4% vào GDP. Theo ông Hiệp, chi phí logistics tại Việt Nam còn cao so với các nước phát triển xung quanh. Chi phí quá cao đã làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của hàng hóa Việt Nam nói riêng trên thị trường quốc tế.
"Chúng tôi thừa nhận năng lực vận tải quốc tế của các ngành logistics Việt còn rất yếu. Hiện nay vẫn chưa có công ty vận tải biển nào có thể đảm đương được việc chuyên chở hàng hóa Việt ra thị trường quốc tế. Trong khi đó, việc phát triển logistics chuyên dụng bằng con đường nhiều hãng hàng không, máy bay chuyên vận chuyển hàng hóa còn yếu".
Ông Hiệp cho biết, thời gian tới Hiệp hội sẽ cố gắng đưa ra các giải pháp để có thể đưa ra các giải pháp để hạ chi phí logistics xuống vào khoảng 14-15% GDP.
Một khó khăn nữa được ông Hiệp chỉ ra là, hiện trong nước có rất doanh nghiệp logistics có vốn trên 1.000 tỷ đồng, còn lại là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong lĩnh vực vận tải quốc tế, mặc dù đã có những phát triển tương đối tốt về kho bãi, kiểm hàng tuy nhiên lại yếu về hoạt động quốc tế. Rất ít công ty mạnh dạn đầu tư mở văn phòng tại nước ngoài, năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
Giải pháp để cạnh tranh
Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và đại dịch toàn cầu, ngành dịch vụ logistics đang có những thay đổi không nhỏ. Đưa ra những giải pháp thúc đẩy ngành logistics Việt phát triển, ông Lê Duy Hiệp cho biết: “Với đường bộ, chúng tôi cố gắng xây dựng thêm các kho chứa mới. Đồng thời, muốn giảm chi phí logistics, cách hiệu quả phải giảm chi phí vận tải (chiếm hơn 50%). Trong chi phí vận tải, phí nhiên liệu – quãng đường – phụ phí chiếm 20%. Muốn 3 thứ đó cùng giảm, Nhà nước sẽ phải ra tay như giảm giá nhiên liệu, đầu tư vào hệ thống giao thông vận tải để rút ngắn thời gian/quãng đường di chuyển hay bỏ các trạm thu phí, BOT…”.
Ngoài ra, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 như hiện nay, giải pháp phù hợp nhất đối với doanh nghiệp logistics là chuyển đổi số. Ứng dụng công nghệ sẽ giúp doanh nghiệp khắc phục khó khăn, gia tăng năng lực cạnh tranh, tăng khả năng gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Liên quan đến việc chuyển đổi số đối với các doanh nghiệp logistics, ông Hiệp cho hay, hiện cả nước có khoảng 40% doanh nghiệp logistics đã áp dụng chuyển đổi số, khá nhiều doanh nghiệp đã đi đầu như tại cảng Cát Lái đã áp dụng khai quan, và các dịch vụ khác hoàn toàn điện tử.
“Vừa qua, chúng ta đã thành lập doanh nghiệp cộng đồng để thúc đẩy chuyển đổi số, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, do doanh nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, do đó việc tiếp cận vốn, tài chính còn hạn chế, công nghệ khó lựa chọn do còn hạn chế về nguồn lực”, ông Hiệp chỉ ra.
Nói về cơ hội và thách thức trong việc đầu tư, phát triển của ngành logistics hiện nay, ông Hiệp cho biết điểm tích cực là Chính phủ đang có sự quan tâm hỗ trợ cho các doanh nghiệp logistics. Thực tế cho thấy, cần những công nghệ mới để đáp ứng yêu cầu của thương mại điện tử, chuỗi cung ứng lạnh, tự động hóa trong quản trị kho hàng cũng như mảng logistics đô thị cần sự phát triển hơn nữa.
Ông Shige Sakaki, đại diện WB: Để ngành logistics Việt có thể phát triển trong thời gian tới, với những nước đang phát triển như Việt Nam thì việc đưa ngành logistics phát triển đúng hướng sẽ đồng nghĩa với việc cải thiện cơ sở hạ tầng, hải quan, kỹ năng và luật lệ.
Chia sẻ về những vấn đề dài hạn cần cải thiện để nâng cao chỉ số năng lực quốc gia về logistics của Việt Nam, ông Shighe Sakaki nhấn mạnh: Có hai vấn đề cần quan tâm. Thứ nhất là chính sách. Thứ hai là hạ tầng.
"Chúng ta có thể so sánh chỉ số và hiệu quả thực tế của Việt Nam hiện nay. Cần xác định các khu vực cần tăng cường kết nối như về cảng biển, cảng hàng không ở các thành phố lớn”, ông Shighe Sakaki lưu ý.