‘Bánh xe’ sản xuất, xuất khẩu tiếp tục quay chậm
(DNTO) - Sự phục hồi chậm của kinh tế thế giới khiến nhiều quốc gia là đối tác thương mại lớn của Việt Nam thắt chặt tiền tệ, giảm nhu cầu tiêu dùng. Điều này tác động trực tiếp đến các đơn hàng từ Việt Nam.
Các “anh lớn” tiếp tục giảm cầu
Những khó khăn của nền kinh tế tiếp tục hiện rõ trong các chỉ số thống kê công nghiệp, thương mại 4 tháng đầu năm của Bộ Công thương mới đây. Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp ước tính giảm 1,8% so với cùng kỳ. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo vốn là động lực tăng trưởng kinh tế nhưng giảm 2,1%, làm giảm 1,5 điểm phần trăm trong mức tăng trưởng chung.
“Kinh tế thế giới chậm phục hồi, áp lực lạm phát gia tăng buộc nhiều quốc gia thắt chặt chính sách tiền tệ, làm giảm nhu cầu tiêu dùng ở nhiều thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Sự sụt giảm đơn hàng sản xuất đã ảnh hưởng đến sự sụt giảm sản xuất công nghiệp trong 4 tháng đầu năm 2023”, ông Nguyễn Hồng Diên, Bộ trưởng Bộ Công thương nhận định.
Kinh tế thế giới khó khăn tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của ta. Tính chung 4 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 210,79 tỷ USD, giảm 13,6% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu giảm 11,8%, nhập khẩu giảm 15,4%.
Kim ngạch xuất khẩu tới hầu hết đối tác thương mại lớn đều giảm. Trong đó, Hoa Kỳ, bạn hàng lớn nhất của Việt Nam (kim ngạch 28,45 tỷ USD, chiếm 26% tổng kim ngạch xuất khẩu), cũng chứng kiến mức giảm mạnh nhất 21% so với cùng kỳ; tiếp đến là Trung Quốc giảm 7,9%; thị trường EU giảm 14,1%; thị trường ASEAN giảm 1,3%; Hàn Quốc giảm 6,9%; Nhật Bản giảm 0,9%.
Lý giải nguyên nhân của sự suy giảm trong sản xuất công nghiệp và hoạt động xuất nhập khẩu, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho biết đối tác lớn như Hoa Kỳ, EU đều giảm chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ khiến khối lượng đơn đặt hàng từ nước xuất khẩu như Việt Nam sụt giảm.
Trong khi đó, sản xuất công nghiệp trong nước chủ yếu phục vụ xuất khẩu vì nhu cầu thị trường quốc tế lớn hơn thị trường nội địa. Vì vậy hoạt động sản xuất sẽ phụ thuộc lớn vào thị trường toàn cầu. Đặc biệt ngành hàng dệt may, da giày, điện tử… cung ứng 90% sản lượng cho xuất khẩu, sản lượng nội địa chỉ chiếm 10%.
Không chỉ giảm lượng, giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản (cà phê, cao su, hạt tiêu, điều …) cũng giảm so với cùng kì; việc giảm giá xuất khẩu dầu thô, xăng dầu, sắt thép, quặng, phân bón cũng ảnh hưởng tới tốc độ tăng giá trị sản xuất và xuất khẩu hàng hóa.
Ngoài ra, việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu cùng chủng loại của Việt Nam. Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng, chi phí đầu vào ở mức cao, cộng thêm đơn hàng sụt giảm sẽ gặp rất nhiều thách thức.
“Đánh” sang các thị trường có giới “nhà giàu” mới nổi
Kinh tế thế giới được nhận định vẫn tiếp tục khó khăn dù có dấu hiệu phục hồi nhưng chậm và không đồng đều ở các quốc gia, kéo theo nhu cầu tiêu dùng phục hồi chậm. Trong khi đó, các nước phát triển ngày càng quan tâm đến các vấn đề an toàn cho người tiêu dùng và dựng lên những tiêu chuẩn, hàng rào kỹ thuật mới với nhiều sản phẩm nhập khẩu. Sự cạnh tranh của Trung Quốc trên các thị trường xuất khẩu …sẽ tiếp tục tác động đến sản xuất và xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những tháng tới.
Do vậy, theo ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công thương), giải pháp cần tập trung trong thời gian tới là hướng đến các thị trường mới tiềm năng như Đông Âu, châu Phi, châu Mỹ La tinh, Ấn Độ, Trung Đông … cũng như các thị trường tăng trưởng khả quan, ít bị ảnh hưởng bởi lạm phát như ASEAN.
“Thời gian tới sẽ quyết liệt khai thác các thị trường mới đang có tầng lớp trung lưu gia tăng như các thị trường mới nổi E7 (Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Mêxico và Indonesia; thị trường Halal (Trung Đông, Malaysia, Brunay)”, ông Phú cho biết.Với các thị trường truyền thống, ông Phú cho biết.
Bộ Công thương sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc khai thác các Hiệp định thương mại tự do (FTA) bằng việc tạo thuận lợi, số hóa công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ C/O ưu đãi. Đồng thời sẽ tiếp tục cung cấp thông tin về thị trường thế giới một cách kịp thời, thông qua các Hội nghị giao ban định kỳ hàng tháng giữa các cơ quan chức năng, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp.