WB: Thiên tai có thể "thổi bay" hàng tỷ USD tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
(DNTO) - Trung bình mỗi năm có tới 852 triệu USD - tương đương 0,5% GDP - và 316.000 việc làm trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt bị ảnh hưởng do nguy cơ lũ lụt ven sông và ven biển...
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), khu vực ven biển Việt Nam ngày càng phải hứng chịu nhiều thiên tai, gây ra những thiệt hại đáng kể về người và kinh tế, tuy nhiên các biện pháp quản lý rủi ro hiện nay là chưa đủ.
"Bão lũ đang hoành hành ở miền Trung Việt Nam là bằng chứng mới nhất cho thấy một xu hướng đáng lo ngại là rủi ro thiên nhiên, vốn đã rất nguy hiểm, đang trở nên ngày càng nặng nề do tốc độ đô thị hóa nhanh, phát triển kinh tế và biến đổi khí hậu", WB nhận định trong báo cáo "Tăng cường Khả năng Chống chịu khu vực Ven biển" công bố ngày 22/10.
Mất hàng tỷ USD tăng trưởng kinh tế
Theo WB, các thảm họa thiên nhiên có thể "thổi bay" hàng tỷ USD tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thập kỷ tới nếu không có chiến lược tăng cường khả năng chống chịu mới.
"Nếu chậm triển khai các hoạt động thêm 10 năm thì nền kinh tế Việt Nam sẽ phải chịu thiệt hại thêm 4,3 tỷ USD Mỹ do thiên tai", WB dự báo. "Với kịch bản biến đổi khí hậu cao, đến năm 2030 biến đổi khí hậu có thể đẩy hơn 1,2 triệu người vào tình cảnh nghèo đói".
Báo cáo ước tính 12 triệu người ở các tỉnh ven biển đang phải chịu ảnh hưởng từ nguy cơ của các trận bão lũ nặng nề và hơn 35% nhà ở hiện đang nằm ở các khu vực ven biển bị xói mòn.
Trung bình mỗi năm có tới 852 triệu USD - tương đương 0,5% GDP - và 316.000 việc làm trong các lĩnh vực kinh tế chủ chốt bị ảnh hưởng do nguy cơ lũ lụt ven sông và ven biển.
Cụ thể, ngành nông nghiệp trị giá 1 tỷ USD GDP và 1,5 triệu nông dân bị ảnh hưởng trực tiếp do lũ. 1,1 triệu tấn thủy sản có nguy cơ bị ảnh hưởng do lũ hàng năm, tương đương với 935 triệu USD kim ngạch xuất khẩu. Hay ngành du lịch biển đóng góp 70% GDP du lịch quốc gia, nhưng khu vực ven biển thường phải đối mặt với lũ lụt, nước dâng do bão và sạt lở.
Ngập lụt nghiêm trọng cũng ảnh hưởng trực tiếp tới 26% số bệnh viện công và trạm xá cùng 11% các trường học trong khu vực. Hơn một phần ba lưới điện của Việt Nam được đặt tại các khu vực trong rừng, do đó đứng trước nguy cơ bị hư hỏng khi cây đổ do bão.
Biến đổi khí hậu có thể đẩy hơn 1,2 triệu người vào tình cảnh nghèo đói vào năm 2030 - Ảnh: Reuters.Theo báo cáo, dù chương trình quản lý rủi ro của Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ trong thập kỷ qua nhưng vẫn phải đối mặt với những thách thức đáng kể. Những tồn tại chính gồm thông tin về rủi ro rời rạc và thiếu, các quy định liên quan như quy hoạch không gian, quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn an toàn và bảo trì hệ thống cơ sở hạ tầng được thực thi kém hiệu quả.
Ví dụ, 2/3 hệ thống đê biển của Việt Nam hiện không đáp ứng đủ các yêu cầu an toàn theo quy định.
Cần hành động ngay với 5 lĩnh vực chiến lược
“Nếu vẫn tiếp tục xu hướng phát triển kinh tế nhanh ở các khu vực có nguy cơ cao như hiện nay thì thiệt hại do thiên tai sẽ gia tăng. Đã đến lúc cần có cách tiếp cận mới nhằm cân bằng giữa rủi ro và cơ hội để các khu vực ven biển Việt Nam có thể tiếp tục là động lực tăng trưởng, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng chống chịu với các cú sốc”, bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, chỉ ra.
Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.000 km. Khu vực ven biển với thiên nhiên trù phú hiện đang mang lại sinh kế cho khoảng 47 triệu người dân, tương đương với một nửa dân số trên cả nước. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của các thảm họa thiên nhiên thường xuyên xảy ra tại Việt Nam.
Báo cáo đưa ra một kế hoạch hành động cụ thể thuộc năm lĩnh vực chiến lược cần được triển khai khẩn trương và dứt khoát.
Thứ nhất, Việt Nam cần cải thiện các công cụ dữ liệu và ra quyết định bằng cách xây dựng cơ sở dữ liệu thiên tai có thể truy cập công khai và hệ thống quản lý tài sản đối với các cơ sở hạ tầng quan trọng.
Thứ hai, cần cân nhắc yếu tố rủi ro trong quy hoạch phân vùng và không gian dựa trên thông tin sẵn có tốt nhất.
Tiếp đến là tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ công bằng cách nâng cấp các công trình này tại những khu vực dễ bị ảnh hưởng nhất và ít được bảo vệ, đồng thời cập nhật các tiêu chuẩn an toàn hiện có.
Thứ tư là tận dụng các giải pháp dựa trên tự nhiên bằng cách khai thác khả năng bảo vệ và đóng góp phát triển kinh tế của hệ sinh thái một cách có hệ thống.
Và cuối cùng là nâng cao năng lực phòng ngừa và ứng phó với thiên tai bằng cách nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm, tăng cường năng lực ứng phó của địa phương, cải thiện mạng lưới an sinh xã hội và thực hiện phân bổ ngân sách rủi ro toàn diện.
Báo cáo "Tăng cường Khả năng Chống chịu khu vực Ven biển" do Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi Thiên tai phối hợp cùng thực hiện.
Theo VnEconomy