Việt Nam tiếp tục là 'thỏi nam châm' hút FDI giữa 'tâm bão'
(DNTO) - Bất chấp những tác động tiêu cực của Covid-19, từ đầu năm đến nay, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đạt gần 15,3 tỷ USD, bằng 97,4% so với cùng kỳ năm 2020. Con số "biết nói" này hứa hẹn Việt Nam tiếp tục là “thỏi nam châm” hút FDI của khu vực.
Bức tranh kinh tế với nhiều mảng sáng nhờ hút FDI
Thống kê mới nhất từ Bộ Kế Hoạch và Đầu tư cho thấy, 6 tháng đầu năm, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam từ các “ông lớn” như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore... không ngừng mở rộng, hứa hẹn năm 2021, Việt Nam tiếp tục là “thỏi nam châm” thu hút FDI của khu vực.
Cụ thể, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực, trong đó, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt 6,98 tỷ USD, chiếm 45,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực sản xuất, phân phối điện đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 5,34 tỷ USD, chiếm gần 35% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Tiếp theo lần lượt là các lĩnh vực kinh doanh bất động sản, hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ với tổng vốn đăng ký đạt 1,15 tỷ USD và 476 triệu USD…
Một số dự án lớn trong 6 tháng đầu năm 2021: Dự án Nhà máy điện LNG Long An I và II (Singapore đầu tư), tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An. Đây là dự án khiến Long An liên tiếp dẫn đầu về thu hút FDI trong 4 tháng trở lại đây.
Dự án Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn II (Nhật Bản đầu tư), tổng vốn đăng ký trên 1,31 tỷ USD tại Cần Thơ; Dự án LG Display Hải Phòng (Hàn Quốc), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 750 triệu USD; Dự án Nhà máy Công ty TNHH Polytex Far Eastern Việt Nam (Đài Loan), điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 610 triệu USD. Dự án Công nghệ Tế bào quang điện Jinko Solar PV Việt Nam (Hong Kong), tổng vốn đầu tư đăng ký 498 triệu USD với mục tiêu sản xuất tấm quang năng và sản xuất thiết bị điện khác tại Quảng Ninh...
Có 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Singapore hiện dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,64 tỷ USD, chiếm gần 36,9% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2020.
Nhật Bản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 2,44 tỷ USD, chiếm gần 16% tổng vốn đầu tư và tăng 66,8% so với cùng kỳ. Hàn Quốc đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,05 tỷ USD, chiếm 13,4% tổng vốn đầu tư, tăng 43,6% so với cùng kỳ. Tiếp theo là Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan…
Theo địa bàn đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 56 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó, Long An dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,57 tỷ USD, chiếm 23,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. TP Hồ Chí Minh đứng thứ hai với tổng vốn đăng ký 1,43 tỷ USD, chiếm 9,3% tổng vốn đầu tư. Cần Thơ đứng thứ ba với 1,32 tỷ USD, chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Hải Phòng, Hà Nội…
Những con số lạc quan này thể hiện niềm tin của nhà đầu tư tiếp tục được duy trì và củng cố, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam Inoue Soichi cho hay, họ sẵn sàng huy động vốn để gia tăng đầu tư, cả những lĩnh vực mới như y tế, sản xuất phân phối điện hay thành phố thông minh.
"Các doanh nghiệp Nhật Bản luôn coi Việt Nam là một thị trường hấp dẫn và có nhiều kỳ vọng vào quy mô thị trường, tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam. Trong năm 2021, số dự án và giá trị vốn đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Nhật Bản giảm một chút do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhưng luôn duy trì xu hướng tăng trong vài năm trở lại đây. Tôi nghĩ rằng doanh nghiệp Nhật sẽ tiếp tục đầu tư và mở rộng tại Việt Nam trong tương lai" - ông Inoue Soichi nhận định.
Hướng đến "chất lượng" để giữ chân "đại bàng"
Theo GS.TSKH. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài (VAFIE), dù vẫn duy trì được độ hấp dẫn về đầu tư nhưng không thể không thừa nhận sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, sự yếu kém của các ngành công nghiệp hỗ trợ… đang là một cản trở lớn của Việt Nam. Việc nâng cao hiệu quả và chất lượng của vốn đầu tư vẫn đang là “bài toán khó” mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Do đó, mục tiêu chất lượng đòi hỏi phải thay đổi tư duy và hành động trong việc lựa chọn đối tác và dự án FDI, phải lựa chọn để có sự liên quan đến chuyển giao công nghệ, quản trị doanh nghiệp, đào tạo nhân lực chất lượng cao, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây là những nhược điểm của 30 năm thu hút FDI của nước ta đã được bàn thảo nhiều, nhưng chậm khắc phục.
Hơn nữa, ngoài những việc đang thực hiện như hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính thì cần tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn. Do đó, cần có cách tiếp cận mới trong việc cải cách nền hành chính quốc gia theo hướng xây dựng Chính phủ điện tử để đạt được mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết 50 của Bộ Chính trị.
"Theo tôi, định hướng mới về FDI trung hạn và dài hạn phải lấy chất lượng làm trọng, không khoan nhượng với dự án của bất kỳ ngành nghề, đối tác, địa phương nào, phải đặt trong bối cảnh nước ta đang theo đuổi chiến lược tăng trưởng với tốc độ cao để hướng đến nền kinh tế xanh, bền vững" - TS. Mại nhận định.
Bày tỏ quan điểm của mình, ông Nguyễn Văn Toàn - Phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (VAFIE) cho rằng, trong thời gian tới, ngoài cải thiện môi trường đầu tư, sửa đổi, bổ sung một số chính sách mới cho phù hợp với bối cảnh, Việt Nam cần phải có những động thái mạnh mẽ để tạo ra sự đột phá trong thu hút FDI.
"Việc xây dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ, giảm thiểu chi phí logistics bất hợp lý. Hiện nay, chi phí logistics của Việt Nam vẫn ở mức cao trong khu vực Đông Nam Á, các khâu vận chuyển, đóng gói, làm thủ tục... tại Việt Nam vừa đắt đỏ hơn, vừa chậm trễ hơn so với vận chuyển từ nước ngoài về Việt Nam. Những điều này phải nhanh chóng được khắc phục nếu muốn đẩy mạnh thu hút FDI trong thời gian tới" - ông Toàn nêu quan điểm.
Ở góc độ chuyên gia, TS. Nguyễn Đình Cung, thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng nhận định, Việt Nam cần có cái nhìn một cách thực tế khi các nhà đầu tư nước ngoài đến từ các “thiên đường thuế” đầu tư vào Việt Nam, bởi đặc điểm nổi bật của “thiên đường thuế” là các quốc gia đó rất hạn chế trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế nước ngoài, nhất là những thông tin về tài chính.
"Chính phủ Việt Nam cần thiết kế những gói chính sách mang tính chất “may đo”, không “may sẵn”, lúc đó chúng ta mới đáp ứng các nhu cầu của các nhà đầu tư" - TS. Cung cho hay.
Cũng theo ông Cung, với các nhà đầu tư châu Âu hay Mỹ, điều họ muốn là chính sách, luật pháp của chúng ta phải ổn định, văn bản cụ thể dự đoán được tương lai, không phát sinh chi phí không chính thức. Điều này đòi hỏi việc cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam cần phải quyết liệt từ cấp trên đến cấp dưới, thay vì chỉ "cao tốc" là bằng phẳng, trong khi "đường làng", "đường tỉnh" đầy chông gai
"Tôi cho rằng chúng ta phải hành động hết sức cụ thể và xác định đúng vấn đề xử lý khi các nhà đầu tư yêu cầu. Bên cạnh đó, phải thu hút được doanh nghiệp bên trong của chúng ta, hỗ trợ họ tham gia chuỗi dịch chuyển này. Nếu không, chỉ có nhà đầu tư nước ngoài tận dụng được lợi thế này" - TS. Nguyễn Đình Cung nhấn mạnh.
Ngoài ra, bên cạnh việc thúc đẩy các dự án đầu tư công nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, giúp các khu công nghiệp được hưởng lợi trong dài hạn, cần biến các nhu cầu đầu tư mở rộng và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của Việt Nam thành cơ hội thu hút các dự án FDI chất lượng cao trong lĩnh vực này.
Ðồng thời, cần chủ động vượt qua các thách thức trong thu hút FDI chất lượng cao, như sự hạn chế của quỹ đất sạch và cơ sở hạ tầng - cảng biển, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, hệ thống kho bãi; sự thiếu hụt số lượng và cơ cấu nguồn lao động lành nghề, có kỹ năng chuyên sâu; sự gia tăng áp lực cạnh tranh và sức ép bị thâu tóm với doanh nghiệp trong nước…
Có thể nói, thu hút FDI chất lượng cao cần có tư duy mới, với cách làm mới, đáp ứng đúng, nhanh hơn, tốt hơn yêu cầu của các tập đoàn đa quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp, việc khống chế được dịch tốt sẽ là "visa" để chúng ta "lót ổ" đón "đại bàng" tới đầu tư không chỉ cho năm 2021, mà cả giai đoạn 2021-2025.