Việt Nam nên tham khảo 3 bài học điều hành chính sách tiền tệ từ quốc tế để 'linh hoạt' vượt bão
(DNTO) - TS. Võ Trí Thành cho rằng, hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đều hướng chính sách tiền tệ vào kiểm soát lạm phát, kết hợp mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và cân bằng cán cân thanh toán. Việt Nam có thể tham khảo, từ đó rút ra những bài học quan trọng để "vững tay chèo" vượt bão.
Hiện nay, "gánh nặng" cung ứng vốn cho nền kinh tế vẫn đang dồn lên vai hệ thống ngân hàng do thị trường vốn vẫn còn nhiều bất cập. Trong khi hiện tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức rất cao và theo khuyến nghị của các tổ chức quốc tế, nếu tiếp tục duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức cao như những năm trước đây sẽ rất rủi ro cho hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế, nhất là khi nguồn vốn của các ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, song vẫn phải "gánh" cả nhiệm vụ cung ứng vốn trung dài hạn cho nền kinh tế.
Nhìn về nửa cuối năm 2023, vẫn còn đó những "cơn gió ngược" của năm cũ gây áp lực lên lạm phát, tỷ giá, lãi suất... Trong bối cảnh đó, điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục là thách thức không hề nhỏ. Chia sẻ tại tọa đàm "Điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ và mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh mới", chiều 20/7, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh, chỉ ra 3 bài học mà Việt Nam có thể học hỏi tham khảo từ các nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
"Bài học đầu tiên mà tôi cho là rất quan trọng là các nước đều rất quan tâm tới cả 2 mục tiêu: Ổn định vĩ mô mà một chỉ số quan trọng là lạm phát", ông Thành nhận định.
Vị chuyên gia phân tích: Chúng ta thấy rất rõ việc ưu tiên cho mục tiêu này là các nước như Mỹ, với hành động của Fed, hay nhiều nước châu Âu. Mặt khác cũng có những nước, trong bối cảnh lạm phát còn rất thấp, thì họ chuyển mạnh vào hỗ trợ tăng trưởng. Đơn cử là Nhật Bản,Trung Quốc.
"Điều chúng ta thấy rõ nhất là tuyên ngôn của các Ngân hàng Trung ương luôn rất rõ về mục tiêu ưu tiên. Ví dụ như đối với Mỹ và châu Âu họ luôn "chốt" mục tiêu cuối cùng là lạm phát phải ở con số là 2%. Rất nhiều tranh cãi tại sao không phải 2.5% hay 1.5%, vì họ đã thông qua trước đó nên ưu tiên dồn mọi giải pháp để bảo vệ. Bên cạnh đó, họ vẫn dịch chuyển chính sách tiền tệ để làm sao hại ít nhất đến phục hồi kinh tế sau đại dịch và tăng trưởng, bằng cách họ không thay đổi lãi suất một loạt, mà gia giảm dần.
Còn với những nước như Nhật Bản và Trung Quốc, mặc dù tập trung nhiều hơn vào hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng, nhưng họ vẫn theo dõi rất chặt chẽ biến động của lạm phát, để khi cần có thể điều chỉnh ít nhiều chính sách tiền tệ. Như vậy, bài học ở đây là bên cạnh sự quyết đoán, phải linh hoạt, khéo léo để làm sao đạt được cả 2 mục tiêu", ông Thành chỉ rõ.
Cũng theo ông Thành, chúng ta hay nói về chính sách tiền tệ là câu chuyện ổn định vĩ mô, lạm phát, hoặc là tỉ giá một bên, và một bên là tăng trưởng, phục hồi kinh tế, sản xuất kinh doanh. Nhưng chúng ta đừng quên rằng chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định, độ an toàn, sự lành mạnh của thị trường tài chính ngân hàng.
Bài học này không mới nhưng từ cuộc khủng hoảng châu Á đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 và đến bây giờ, thấy rất rõ câu chuyện sự sụp đổ của một loạt ngân hàng, khởi đầu là ngân hàng SVB (Silicon Valley Bank) của Mỹ, kéo theo một loạt ngân hàng khác của Mỹ cũng như một trong top đầu ngân hàng là Silvergate Bank sụp đổ.
"Bài học thứ hai, nếu nhìn theo nghĩa rộng của kinh tế vĩ mô, là sự an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng. Thực chất Việt Nam năm 2022 cũng phải rất vất vả chống đỡ sự rung lắc của thị trường tài chính, và đặc biệt là chấn động của một số ngân hàng ở Việt Nam. Chúng ta phải lưu ý bài học này", ông Thành cho hay.
Cuối cùng, ông Thành nhấn mạnh, các chính phủ muốn đa mục tiêu thì phải đa công cụ, cho nên chính sách tiền tệ dù quan trọng nhưng không phải là tất cả. Trong những điều kiện nhất định, đặc biệt là với nền kinh tế mở, khi một chu chuyển vốn rất mạnh, nhiều khi chính sách tiền tệ "không khéo" hiệu lực lại rất thấp. Thế nên kể cả đa mục tiêu, chúng ta phải phối hợp rất chặt chẽ với các chính sách khác, đặc biệt là chính sách tài khóa, ngân sách.
"Điều này thể hiện rõ nhất trong đại dịch cũng như gần đây, trong lúc "chới với" vì gánh nặng cho hỗ trợ, tăng trưởng, chính sách tiền tệ đã được chính sách tài khóa đỡ lấy. Ví dụ câu chuyện Hoa Kỳ, Fed có thể mua trái phiếu Chính phủ Mỹ, để cung ứng khả năng tiền và thanh khoản cho chính sách tài khóa. Tất nhiên đây là cực chẳng đã, nhưng phối hợp tới mức kỹ thuật như vậy, đáng để tham khảo", ông Thành nói.
Nêu quan điểm, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế cho rằng, bên cạnh 3 bài học như vậy, chúng ta cũng cần bám sát thông tin, phải linh hoạt, phải minh bạch. Đặc biệt đánh giá cao Chính phủ đã có quyết sách hợp lý và kịp thời về chuyển trạng thái chính sách tiền tệ từ "chặt chẽ" sang "chắc chắn" và đến nay, tiếp tục chuyển sang "linh hoạt, nới lỏng hơn".
Ông lực cho rằng, "điều kiện quốc tế và trong nước trong 2 năm qua có rất nhiều biến động gọi là "đa khủng hoảng" xảy ra. Đã có những điều chỉnh về mặt chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng phù hợp với bối cảnh, với thời điểm và mức độ, tôi thấy rất phù hợp".
Phân tích "bộ 3 bất khả thi" là yếu tố quan trọng ban đầu để đưa ra quyết sách phù hợp. ÔIng Lực cho rằng: Một là giá cả, lạm phát trên thế giới về cơ bản đã chững lại, thậm chí, ở một số thị trường còn giảm nhanh hơn dự báo, như ở Mỹ, lạm phát tháng 6 so với cùng kỳ năm trước chỉ khoảng 3% từ mức 9% của đỉnh điểm tháng 7-8/2022. Giá cả các mặt hàng, đặc biệt là giá năng lượng, giá hàng hóa cơ bản cũng đã và đang giảm dần, trừ một vài mặt hàng nông sản thời gian gần đây, như gạo, cà phê…
Lý do thứ hai, áp lực đối với lạm phát, với tỉ giá trên thế giới đã giảm nhiệt đi rất nhiều. Tương tự, ở Việt Nam, lạm phát tổng thể của chúng ta hồi tháng 1 so với cùng kỳ năm trước ở mức khoảng 4.9%, tháng 6 vừa qua chỉ còn khoảng 2% so với cùng kỳ năm trước. Còn tính bình quân 6 tháng là 3.29% so với cùng kỳ. Lạm phát cơ bản của chúng ta đã và đang giảm dần dù chậm hơn, từ mức khoảng 5.21% đầu năm xuống 4.74% của tháng 6. Đấy là cơ sở rất quan trọng.
Song, kinh tế của chúng ta 2 quý vừa qua mặc dù có tiến triển hơn nhưng vẫn còn khó khăn, chịu tác động rất lớn từ những yếu tố đặc biệt bên ngoài và những yếu tố nội tại bên trong tồn tại lâu nay và vẫn phải tiếp tục xử lý. Vì thế, chúng ta đạt mức tăng trưởng chỉ 3.72% của 6 tháng đầu năm.
Theo đó, hiện nay chúng ta cần thay đổi chính sách phù hợp để "chèo lái" hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, "chúng ta nới lỏng nhưng linh hoạt, tức là vẫn bảo đảm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô". Cuối cùng là phối hợp đồng bộ hơn với các chính sách khác, trong đó có chính sách tài khóa, giải ngân vốn đầu tư công và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thì chúng ta mới bảo đảm được thực hiện tốt các mục tiêu đã đề ra...