Ngậm ngùi nhìn nhãn ngoại dán đè lên hàng Việt khi xuất khẩu
(DNTO) - Nhiều đối tác EU sang Việt Nam tìm nhà xuất khẩu nhưng yêu cầu doanh nghiệp Việt phải sử dụng thương hiệu của họ thì mới nhập hàng.
Chưa thể xuất khẩu thương hiệu
Trong Hội nghị tổng kết 2 năm thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sáng 27/12, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng, Vụ Chính sách Thương mại đa biên (Bộ Công thương) cho biết, mọi người đều hiểu khi sản phẩm có thương hiệu, giá trị sẽ cao hơn rất nhiều.
Nhưng thời gian qua, khi tiếp xúc với nhiều tỉnh thành, nói chuyện với nhiều doanh nghiệp và đặt câu hỏi tại sao doanh nghiệp không xuất khẩu bằng thương hiệu, câu trả lời nhận về đều là “nói thì dễ nhưng làm thì khó” vì doanh nghiệp muốn bán thương hiệu nhưng không ai mua.
Vị này cũng chia sẻ câu chuyện trong hội nghị mới đây tại TP.HCM, Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài đã đưa các nhà nhập khẩu châu Âu vào Việt Nam để thúc đẩy xuất khẩu gạo sang thị trường Bắc Âu. Tuy nhiên các nhà nhập khẩu yêu cầu không để thương hiệu gạo Trung An mà phải dán thương hiệu gạo của họ. Lúc đó, ông Phạm Thái Bình CEO của Trung An từ chối và nói rằng nếu không mua bằng thương hiệu của Trung An thì sẽ không bán. Thế nhưng, không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng và bản lĩnh như vậy.
“Có doanh nghiệp sản xuất hạt điều chẳng hạn, họ nói nếu làm như Trung An thì họ chết vì họ cần xuất khẩu. Rõ ràng ở đây, thương hiệu nó không đơn giản”, ông Khanh nói.
Hay có doanh nghiệp ở Hải Phòng hiện đang làm gia công cho đối tác Đài Loan để xuất khẩu giầy da sang châu Âu với giá trị khoảng 200 triệu USD mỗi năm. Nhưng khi thị trường biến động, đơn hàng giảm từ 50-80%, nhân công mất việc, nhà xưởng, máy móc thiết bị để trống.
Khi được hỏi tại sao không làm thương hiệu, họ nói rất khó mặc dù họ có cả đội thiết kế, chỉ cần có ý tưởng, có mẫu giày là họ làm được, nhưng họ không kết nối được với hệ thống phân phối tại thị trường châu Âu. Tuy vậy hiện nay, doanh nghiệp này đã có đơn hàng nhỏ tại Anh đặt hàng theo thương hiệu giày của họ.
“Đấy chính là một khởi đầu rất tốt, hãy đi từng bước nhỏ và doanh nghiệp nên đẩy mạnh theo hướng đó”, ông Khanh nói.
Thuế suất 0% cần tận dụng triệt để
Sau 2 năm thực hiện EVFTA, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU tăng mạnh, từ hơn 35 triệu USD năm 2020 lên hơn 43 triệu USD đến hết tháng 11 năm nay. EU hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 7,5%,chiếm tỷ trọng bình quân 13,6% trong tổng xuất khẩu của cả nước (2016-2021).
Tuy nhiên, theo Vụ Chính sách Thương mại đa biên, còn rất nhiều sản phẩm có tiềm năng và dư địa lớn để đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Đơn cử như rau quả tươi, rau củ quả chế biến, nếu theo thuế MFN trước đây, mức thuế phải chịu lên tới 20%, nhưng với EVFTA, mức thuế này phần lớn về 0% EIF; trong khi thị phần mặt hàng này tại EU chỉ chiếm 2,7% nên dư địa để đẩy mạnh xuất khẩu là rất lớn. Các mặt hàng khác như thủy sản, dệt may, máy móc thiết bị cũng tương tự.
“Nếu không có EVFTA, chúng ta gần như không thể xuất khẩu sang EU và khó có thể cạnh tranh với gạo Campuchia. Những mặt hàng có thị phần lớn, thuế xuất cao nên đẩy mạnh xuất khẩu càng nhiều càng tốt”, ông Ngô Chung Khanh nhấn mạnh.
11 tháng đầu năm, tỷ lệ cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu EUR1 là trên 25%, tăng hơn 52% so với năm trước. Dư địa tăng trưởng còn rất nhiều vì có những mặt hàng có tỷ trọng lên tới 70%. Tỷ lệ tận dụng ưu đãi càng lớn thì giá trị thu về càng nhiều. Nhưng 2 mặt hàng máy vi tính máy móc thiết bị tỷ lệ tận dụng ưu đãi chỉ chiếm lần lượt là hơn 1% và hơn 5%, trong khi đây là hai mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất sang EU.
“Một tính toán nôm na là tổng kim ngạch X tỷ lệ tận dụng = tiền chúng ta thu về thật sự. Như vậy nếu tỷ lệ tận dụng quá thấp thì giá trị tạo ra cho đất nước Việt Nam không nhiều. Mục tiêu là làm sao tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi nhiều hơn nữa, không chỉ tổng mặt hàng mà là từng mặt hàng”, ông Khanh nêu ví dụ.
Cũng theo vị này, việc Việt Nam làm gia công cho nhiều thị trường không xấu và đây cũng là một con đường để phát triển. Nhưng để phát triển công nghiệp phụ trợ, phải rút ngắn thời gian gia công và tận dụng công nghệ 4.0 để xây dựng thương hiệu riêng của mình. Bởi đối tác hôm nay có thể đặt hàng của Việt Nam, ngày mai họ có thể đặt hàng tại Campuchia, khi giá nhân công của chúng ta tăng cao hơn các nước trong khu vực, họ sẽ chuyển ngay.
Ngay sau khi kí kết EVFTA, Bộ Công thương cũng đã phối hợp với các bộ ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hỗ trợ doanh nghiệp. Nhưng khi nhìn kế hoạch hỗ trợ của địa phương, nguồn lực mỏng nhưng hỗ trợ hầu hết doanh nghiệp dẫn đến sự hỗ trợ phân tán, không tập trung vào mặt hàng, ngành hàng thế mạnh. Do đó doanh nghiệp cho rằng sự hỗ trợ đó còn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, sự kết nối giữa các doanh nghiệp còn chưa sâu sắc.
Ông Khanh cho biết, có doanh nghiệp vẫn nhập khẩu cao su từ Trung Quốc trong khi có doanh nghiệp hoàn toàn sản xuất cao su Việt Nam. Như vậy có doanh nghiệp thừa lại chưa kết nối với các doanh nghiệp thiếu.
“Chúng ta mất mười năm để đàm phán, tiến tới kí kết EVFTA. Đây là sự nỗ lực của bao nhiêu con người từ cấp lãnh đạo cao nhất cho đến những người kĩ thuật. Có những quyết định đau đớn từ ngành hàng truyền thống và phi truyền thống để tạo ra cơ hội xuất khẩu con cá, hạt gạo….ở thuế xuất 0%.
Nhưng những lợi thế đó sẽ không còn nếu bây giờ các đối thủ của chúng ta cũng kí được FTA với EU. Chúng ta còn thời gian trong trung hạn là 3-5 năm để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. Hiện tỷ lệ thị phần nhiều mặt hàng của ta chỉ chiếm 2-5% tại EU, chỉ cần tăng lên đến 10%, giá trị sẽ rất khác, đời sống của người nông dân cũng khác”, ông Khanh nhấn mạnh.