Giảm khai thác, tăng nuôi trồng, bảo tồn để ngành thủy sản phát triển bền vững
(DNTO) - Hiện trữ lượng hải sản ở các vùng biển đang giảm khiến sản lượng ngư dân đánh bắt được giảm theo. Vì thế, giảm cường lực khai thác hải sản là bài toán đang được đặt ra cấp thiết.
Tình trạng khai thác thuỷ sản đang ở mức báo động
Hiện cường lực khai thác hải sản của ngư dân đang ở mức báo động. Trữ lượng hải sản ở các vùng biển nước ta ước tính vào khoảng 4,7 triệu tấn. Thế nhưng, mỗi năm Việt Nam đang khai thác khoảng 3,1 - 3,2 triệu tấn là quá mức, quá giới hạn cho phép.
Nhận thức của người dân về bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi hải sản chưa cao. Tư tưởng “nếu mình không đánh bắt thì người khác cũng đánh bắt”, vì lợi ích trước mắt mà đa số sẵn sàng khai thác tận diệt. Tình trạng ngư dân sử dụng các nghề, ngư cụ có tính tận diệt nguồn lợi như chất nổ, xung điện, lưới kéo đơn, lưới kéo đôi, đánh bắt cá con, sản xuất ở vùng biển ven bờ, nhất là trong các khu bảo tồn biển vẫn tiếp diễn khiến nguồn lợi hải sản suy giảm về trữ lượng, sản lượng, kích thước, thành phần loài.
Tại Hội nghị Sơ kết Công tác sáu tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm của Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) ngày 6/7, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, thủy sản là một lĩnh vực quan trọng để đạt mục tiêu tăng trưởng của ngành nông nghiệp, do đó, bài toán đặt ra là cần giảm cường lực khai thác để ngành thuỷ sản phát triển bền vững.
Cũng theo thứ trưởng, việc giảm sản lượng khai thác cần có kế hoạch cụ thể. Đầu tiên là cần tăng cường bảo tồn. Việc bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản cần tập trung vào nâng cao chất lượng. Tổng cục tập trung vào các điểm làm tốt để tổng kết, nhân rộng.
“Khai thác là một trong những trụ cột quan trọng nên cần kiểm soát chặt chẽ để hướng đến nghề cá có trách nhiệm. Đơn vị phải kiểm soát được sản lượng khai thác gắn với sự truy xuất nguồn gốc" - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nêu rõ.
Tiếp đó cần tăng cường nuôi trồng, với hai đối tượng chủ lực là tôm và cá tra, ngành phải kết nối các hệ thống nuôi xuyên suốt thành chuỗi ngành hàng hoàn chỉnh để nâng cao sự cạnh tranh của sản phẩm. Với tôm, dư địa để tăng diện tích không còn, chỉ còn tăng năng suất. Tuy nhiên, khâu kiểm soát giống còn nhiều bất cập cần có sự kiểm soát, thanh kiểm tra chặt chẽ. Bởi, chất lượng con giống đặc biệt quan trọng về chất lượng, năng suất và phòng bệnh.
Bên cạnh đó, ông Ngô Tấn - Phó giám đốc Sở NN&PTNT Quảng Nam cho rằng cần tăng cường khảo sát, đánh giá ngư trường đánh bắt hải sản ở các vùng biển xa, dự báo chính xác tình hình nguồn lợi, trữ lượng hải sản, qua đó hướng dẫn ngư dân sản xuất thuận lợi, đánh bắt hải sản vừa phải, không vượt quá giới hạn.
“Bộ NN&PTNT cần thường xuyên có bản tin hải sản ở các ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa, chính xác, đặc biệt là dự báo các loài hải sản quý hiếm. Thông tin trên vừa giúp ngư dân nâng cao giá trị hải sản sau đánh bắt, vừa khắc phục tình trạng chỉ “quen” đánh bắt cá nục, cá ngừ làm suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi.
Tầm quan trọng của các thông tin trên còn nằm ở chỗ giúp ngư dân không liều lĩnh ra ngoài vùng biển Việt Nam sản xuất. Nguy hại của tình trạng “thẻ vàng” thủy sản mà Ủy ban châu Âu phạt nước ta rành rành ra đó” - ông Tấn nói.
Để xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2021 chạm ngưỡng 45 tỷ USD
Theo Bộ NN&PTNT, trong 6 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 24,23 tỷ USD, tăng 28,2% so với cùng kỳ năm 2020.
Với những tín hiệu tốt về xuất khẩu nông lâm thủy sản thời gian qua, Bộ NN&PTNT đã đưa ra mục tiêu mới trong năm nay đạt khoảng 45 tỷ USD, cao hơn so với chỉ tiêu Chính phủ giao 3 tỷ USD.
Để thực hiện thành công mục tiêu này, ngành nông nghiệp sẽ thực hiện các giải pháp tác động vào các sản phẩm chủ lực xuất khẩu có triển vọng và khả năng tăng giá trị xuất khẩu cao trên cơ sở tận dụng hiệu quả cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do, nhất là Hiệp định Thương mại Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) để tháo gỡ rào cản và thâm nhập thị trường mới.
Đồng thời, ngành sẽ mở rộng thị trường nông sản sang những nền kinh tế có cơ cấu sản phẩm bổ sung với Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu hay Trung Đông; lựa chọn và đưa các sản phẩm phù hợp vào các thị trường tiềm năng như: Nga, Trung Đông, châu Phi, ASEAN...
Ông Nguyễn Quốc Toản - Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, ngành tiếp tục đàm phán để tháo gỡ rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật của các nước đối với hàng hóa nông sản xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với thị trường Mỹ sẽ theo dõi sát sao và có phương án kịp thời liên quan áp dụng Đạo luật Nông nghiệp (Farm Bill) trong thủy sản, nguồn gốc hợp pháp gỗ và sản phẩm gỗ, điều tra chống bán phá giá đối với mật ong...; cùng với đó là tiếp tục đàm phán mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông sản hai bên.
Với thị trường Trung Quốc là đẩy nhanh tiến độ đàm phán mở cửa xuất khẩu chính ngạch các nông sản có giá trị và tiềm năng xuất khẩu như: khoai lang, sầu riêng, ớt, chanh leo, bưởi, dừa..; không để ứ đọng hàng hóa tại các cửa khẩu xuất khẩu. Quyết liệt tháo gỡ vướng mắc liên quan đến vấn đề thẻ vàng đối với hàng thủy sản nhập khẩu vào EU. Ngành tháo gỡ các khó khăn kỹ thuật, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động vật (SPS) đối với xuất khẩu thủy sản sang thị trường Saudi Arabia, Brazil.
Theo ông Nguyễn Như Tiệp - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, Việt Nam tiếp tục có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu nông lâm thủy sản. So với các quốc gia có nền nông nghiệp tương đồng thì Việt Nam vẫn có lợi thế về tổ chức sản xuất tốt, các hiệp định thương mại, cũng như trong việc tiếp cận mở cửa thị trường.
Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam đánh giá, mặc dù dịch Covid-19 gây nhiều khó khăn trong sản xuất, xuất khẩu nhưng kết quả xuất khẩu thời gian qua rất tích cực. Một số mặt hàng chủ lực, điển hình như tôm Việt Nam đang đứng đầu thị phần ở nhiều thị trường. Thị trường Nga có sự tăng trưởng mạnh nhất với 61% và hầu hết các mặt hàng tăng trưởng khá.
"Thời gian qua, so với đầu tư chung trong ngành nông nghiệp thì đầu tư cho thủy sản còn nhiều hạn chế. Hiện ngành đã có chủ trương đầu tư hơn và cần tiếp tục ưu tiên trong thời gian tới để đưa nghề cá phát triển bền vững và trách nhiệm. Bên cạnh đó, ngành cần làm tốt hơn vai trò "nhạc trưởng" trong việc cấp mã số vùng nuôi tôm, đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu" - ông Nam nhấn mạnh.