Doanh nghiệp lo ngại nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng

(DNTO) - Dù nỗ lực chuyển đổi nhưng các doanh nghiệp dệt may, đồ gỗ… vẫn lo ngại thị trường xuất khẩu có thể bị thu hẹp nếu không kịp thời đáp ứng được các tiêu chí xanh.

Doanh nghiệp đang gặp khó khi chứng minh tính bền vững và thân thiện môi trường của sản phẩm xuất khẩu. Ảnh: T.L.
Khó chồng khó
Tại thời điểm này, một trong những mối quan tâm lớn của ngành gỗ là phản ứng về chính sách thuế của thị trường chủ lực, cụ thể là Mỹ, nơi chiếm tới 55% tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra là khu vực có chính sách phát triển bền vững rất khắt khe là châu Âu, cũng là một trong những thị trường chính của ngành gỗ Việt Nam - đạt khoảng 1,2 tỉ USD.
Ông Nguyễn Chánh Phương, Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM cho biết thực tế ngành gỗ đã chuyển đổi xanh từ năm 2018, hợp tác chặt chẽ với châu Âu để tuân thủ tiêu chuẩn EURD (Quy định gỗ của Liên minh châu Âu), nhưng thực tế ngành vẫn đối diện với không ít khó khăn.
Phần lớn nguyên liệu gỗ được trồng theo quy mô lớn nhưng chưa tham gia sâu vào quản trị chuỗi cung ứng. Bởi doanh nghiệp ngành gỗ không thể phát triển riêng lẻ mà phải nằm trong một chuỗi liên kết chặt chẽ, từ khâu trồng rừng, khai thác, sản xuất đến phân phối.
Hiện nay, thay vì chỉ tập trung vào gỗ, nhiều doanh nghiệp đã chuyển sang khai thác các nguyên liệu tự nhiên khác như mây, tre, lá, năn tượng – những vật liệu được sản xuất thủ công tại nhiều vùng miền trên cả nước. Tuy nhiên, việc truy xuất nguồn gốc của các sản phẩm này lại gặp nhiều thách thức. Các vấn đề về quản trị nội bộ, thuế, hoàn thuế và quy trình chứng nhận nguồn gốc còn gặp nhiều khó khăn, tạo ra sự thiếu đồng nhất trong chuỗi cung ứng.
“Một trong những thách thức quan trọng nhất là làm thế nào để chứng minh tính bền vững và thân thiện môi trường của sản phẩm trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây không phải là một nhiệm vụ đơn giản, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ doanh nghiệp”, ông Phương cho biết.
Một trong những rào cản lớn nhất để chuyển đổi xanh, theo ông Đinh Hồng Kỳ, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM (HUBA), là vấn đề tài chính. Theo thống kê, khoảng 65% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để thực hiện các dự án xanh. Mặc dù đã có các cơ chế tài chính hỗ trợ nhưng việc đưa nguồn vốn này đến đúng đối tượng vẫn là một bài toán khó.
Bên cạnh đó, nhân lực cũng là một yếu tố đáng lo ngại. Chỉ có khoảng 12% doanh nghiệp tại TP HCM sở hữu đội ngũ nhân sự có chuyên môn về ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị), gây cản trở lớn cho quá trình chuyển đổi.
Công nghệ cũng là một thách thức quan trọng, đặc biệt trong các ngành có mức độ phát thải cao như dệt may. Hiện tại, khoảng 40% thiết bị trong ngành này đã lạc hậu, khiến việc giảm phát thải carbon trở thành một vấn đề nan giải. Trong bối cảnh Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trên thị trường quốc tế, việc nâng cấp công nghệ và đáp ứng các tiêu chuẩn xanh là điều bắt buộc.
Nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng

Thương mại xanh đang trở thành xu hướng chung của toàn cầu đòi hỏi doanh nghiêp nhanh chóng thích ứng để không bị loại khỏi cuộc chơi. Ảnh: T.L.
Ông Phạm Minh Quang, đại diện Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương) cho biết châu Âu và Mỹ là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đồng thời cũng có nhiều quy định mới liên quan đến phát triển bền vững, ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp Việt Nam.
Tại thị trường EU, hai quy định quan trọng là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) và Quy định chống phá rừng (EUDR) đang tác động đến nhiều ngành, bao gồm thép, xi măng, nhôm, phân bón, hóa chất, nhựa và nông lâm thủy sản. Bên cạnh đó, các yêu cầu về kinh tế tuần hoàn và kiểm soát chuỗi cung ứng từ trang trại đến bàn ăn cũng đang ngày càng được siết chặt.
Tại thị trường Mỹ, quy định về thương mại xanh đang trở thành xu hướng. Đáng chú ý, chính phủ Mỹ ưu tiên mua sắm các sản phẩm thân thiện với môi trường. Đối với ngành gỗ, Việt Nam và Mỹ đã có thỏa thuận riêng nhằm đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn bền vững.
“Doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí cao hơn để tuân thủ các quy định mới, đầu tư vào công nghệ xanh, giảm phát thải. Thị trường xuất khẩu có thể bị thu hẹp, thậm chí có nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe”, ông Quang nói.
Đồng tình quan điểm này, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM cho biết các tập đoàn lớn trên thế giới đã có những bước đi mạnh mẽ để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Heniken đã đầu tư 14 triệu USD vào năng lượng tái tạo và cắt giảm 50% lượng carbon. Vinamilk đã đạt tỷ lệ 90% bao bì tái chế, trong khi Unilever mỗi năm tái chế 10.000 tấn nhựa trong quá trình sản xuất bao bì. Họ đang đặt ra tiêu chuẩn cho các nhà cung ứng trong chuỗi phải đáp ứng tiêu chí xanh của họ. Nếu doanh nghiệp Việt Nam không kịp thích nghi, nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng quốc tế là rất lớn.
Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn xây dựng chính sách. Để chuyển đổi xanh thực sự hiệu quả, cần đặt ra những mục tiêu cụ thể cho từng ngành, nghề và lĩnh vực, đồng thời có chính sách dài hạn để bảo đảm phát triển bền vững. Việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, hỗ trợ đào tạo nhân lực và khuyến khích đổi mới công nghệ sẽ là chìa khóa giúp doanh nghiệp Việt Nam không chỉ đáp ứng các tiêu chuẩn xanh mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.