Vai trò đặc biệt quan trọng của Quốc hội đối với sự nghiệp đổi mới, tạo dựng cơ đồ đất nước
(DNTO) - Trải qua gần 80 năm, với 15 nhiệm kỳ hoạt động, Quốc hội đã không ngừng đổi mới một cách sâu sắc về tổ chức và hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp to lớn và quan trọng vào những thành tựu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta rất phấn chấn, tự hào với sự khẳng định trịnh trọng của Đảng ta tại đại hội XIII: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Cơ đồ đất nước là giang sơn gấm vóc, là lãnh thổ toàn vẹn và độc lập, là đất nước hùng cường, xã hội tốt đẹp, nhân dân tự do, hạnh phúc.
Trong tiến trình tạo dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước, Đảng ta đã khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo triển khai sự nghiệp đổi mới với những đường lối, định hướng, chủ trương hết sức đúng đắn, sáng tạo, tạo ra bước đột phá lớn và toàn diện làm xoay chuyển tình hình, đem lại thành quả vô cùng to lớn. Gần 40 năm qua, công cuộc đổi mới đã thực sự gắn bó với vận mệnh dân tộc, vận mệnh đất nước, gắn bó với mỗi người chúng ta và được bạn bè quốc tế quan tâm đến như một lẽ đương nhiên.
I. Công cuộc đổi mới và những thành tựu vĩ đại
Không phải bây giờ mà trong quá trình cách mạng, chúng ta luôn thực hiện sự đổi mới. Có điều công cuộc đổi mới lần này mang tính toàn diện, tổng thể, sâu sắc và được chuẩn bị có bài bản. Đổi mới là công việc của chúng ta, theo cách thức và bước đi của ta. Đổi mới là công cuộc sáng tạo mang tính tất yếu. Công cuộc đó phải được triển khai một cách sâu rộng và đồng bộ, nhưng vì nó còn mới mẻ nên phải cân nhắc từng đường đi nước bước cụ thể, chắc chắn. Đổi mới vừa là sự thay thế cái cũ, vừa là sự chọn lựa cái cũ, cái hiện đang còn tác dụng để cải biến cho nó trở nên thích dụng hơn. Đổi mới có thể coi là một sự phủ định biện chứng: Không phủ định sạch trơn và không quay lại cái cũ.
Đổi mới để phát triển, đồng nghĩa với phát triển, nhưng là sự phát triển trong thế ổn định, sự phát triển theo đúng định hướng và con đường mà chúng ta đã chọn. Chúng ta hiểu rõ tình hình thực tế của đất nước mình, và đặc biệt quan trọng là khi thực hiện đổi mới phải có nguyên tắc, đổi mới nhưng không thay đổi bản chất chế độ xã hội. Đổi mới là thực hiện bước chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, nhưng trong khi thực hiện cơ chế thị trường, Nhà nước phải quản lý và điều hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng thả nổi thị trường; đổi mới để phát triển kinh tế, nhưng sự phát triển đó phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo. Đổi mới có yêu cầu và gắn với mở cửa, hội nhập, có yêu cầu và gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Toàn bộ công cuộc hội nhập – mở cửa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước là để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền vững; là để xây dựng và tăng cường lực lượng sản xuất, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất phù hợp; là để nâng tầm đất nước lên trình độ mới, tầm cao mới. Vậy nên đổi mới chính là để hướng tới chủ nghĩa xã hội, để hiện thực quá độ lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác lập rõ ràng hơn.
Đổi mới và cải cách có cùng nội dung hướng tới cái mới, cái tốt đẹp hơn. Nhưng cải cách thường được hiểu là những hành động nhất định, những cuộc vận động nhất định nhằm những mục tiêu nhất định. Khi những hành động cải cách ấy, những cuộc vận động cải cách ấy đã đạt tới mục tiêu đề ra thì phải có hành động cải cách mới, cuộc vận động cải cách mới. Còn đổi mới, theo cách hiểu của chúng ta, do bản chất và tính tất yếu của nó, lại là một quá trình lâu dài. Đổi mới như một dòng chảy liên tục, vận động liên tục của cả guồng máy xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, phát động và lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Các Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII và chắc chắn cả Đại hội XIV của Đảng đều khẳng định tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới để đưa đất nước đi lên. Lời hiệu triệu đó rất phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và ý nguyện của nhân dân.
Quá trình đổi mới là quá trình sáng tạo đưa tới những chuyển biến to lớn và thiết thực. Đổi mới tư duy đã khắc phục được những nhận thức lệch lạc, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, từng bước hình thành những quan niệm mới về mục tiêu, bước đi và cách thức phát triển đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Công cuộc đổi mới đã giải phóng sức sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất mới, đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng của một nước có thu nhập thấp; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, ổn định chính trị - xã hội được bảo đảm, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường, an ninh quốc phòng được củng cố vững chắc, quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được đẩy mạnh thêm.
Chính đổi mới đã đưa nước ta từ chỗ thiếu thốn, có khi phải nhập lương thực, nay trở thành nước xuất khẩu gạo đứng nhất nhì thế giới. Chưa bao giờ nhịp độ phát triển và đổi thay từ nông thôn tới thành thị, từ miền núi đến đồng bằng lại nhanh chóng, mạnh mẽ như hiện nay. Cũng chưa bao giờ phong cách sống và làm việc của mọi gia đình và mọi người dân lại có những nét mới mẻ, tươi tắn như hôm nay. Đổi mới đã giúp chúng ta vừa kế thừa và phát huy những thành quả tốt đẹp đã đạt được trước đây vừa có cách nghĩ khác trước, nghe khác trước, nhìn khác trước, làm khác trước, phù hợp với tình hình đang phát triển. Đổi mới đã đem đến một sức vóc mới cho đất nước, tiếp sức đôi chân chúng ta đi thêm những bước dài trên con đường hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát triển bền vững đất nước” [1].
Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Cội nguồn của những thành tựu trên là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng ta nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp đổi mới được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Một nhân tố đặc biệt quan trọng cần được nhìn nhận một cách thấu đáo đó là công cuộc đổi mới được sự điều hành, quản lý một cách khoa học, nhuần nhuyễn, hiệu quả của Nhà nước mà cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội, bởi vì mọi chủ trương của Đảng để chỉ đạo công cuộc đổi mới đều được thể chế hóa đi vào cuộc sống.
II. Quốc hội với công cuộc đổi mới
Cách mạng Tháng Tám mở ra một kỷ nguyên mới độc lập dân tộc và một tương lai huy hoàng cho đất nước ta. Ngay sau đó, ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta đã được tiến hành và bầu ra Quốc hội khóa I với cơ cấu thành phần là hình ảnh sinh động của khối đại đoàn kết dân tộc, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quốc hội ta là tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết của toàn dân, cho chí khí quật cường của dân tộc, cho quyết tâm độc lập thống nhất của toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam”[2].
Trải qua 78 năm với 15 nhiệm kỳ hoạt động, Quốc hội luôn thể hiện là một thiết chế đặc biệt quan trọng của bộ máy nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội có những đóng góp to lớn vào việc bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc, cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đánh thắng các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược; khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, tăng cường quốc phòng an ninh, đẩy mạnh công tác đối ngoại; xây dựng hiến pháp và hàng trăm đạo luật, pháp lệnh, tạo lập nền tảng chính trị bền vững để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đưa đất nước phát triển về mọi mặt.
Công cuộc đổi mới một cách toàn diện, hệ thống, mạnh mẽ, sâu sắc thực sự là một cuộc cách mạng sáng tạo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với chức năng quản lý, phát triển xã hội, gắn liền với sự nghiệp đổi mới, Quốc hội đã không ngừng đổi mới một cách sâu sắc về tổ chức và hoạt động, thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Quốc hội đã nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn đường lối, quan điểm, chủ trương của đảng về sự nghiệp đổi mới để thực hiện các hoạt động lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, tăng cường hoạt động đối ngoại, đổi mới cơ cấu tổ chức một cách thống nhất, toàn diện, hiệu quả, để Quốc hội thực thực hiện và phát huy tốt nhất vai trò của mình.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Quốc hội đã quán triệt, bám sát các chủ trương, nghị quyết của Đảng, phân tích đúng đắn tình hình mà đời sống đất nước đang đòi hỏi để từ đó xác định những vấn đề trọng điểm cần giải quyết; tập trung trí tuệ, không ngừng sáng tạo trong việc tạo dựng khung khổ pháp lý cho các hoạt động của Nhà nước, phục vụ sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Điều đó thể hiện trong những lĩnh vực sau:
Thứ nhất, hoạt động lập pháp ngày càng được đẩy mạnh, đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới.
Hệ thống pháp luật được hình thành một cách đồng bộ, đầy đủ bảo đảm chất lượng, thông qua việc bám sát yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Nhiều đạo luật được xây dựng trên tinh thần đổi mới, phục vụ trực tiếp, nhanh chóng, thuần thục cho các lĩnh vực trọng điểm, thực chất, tạo sự bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên xây dựng mới, bổ sung các đạo luật thuộc các lĩnh vực trọng điểm, có tính bức thiết và khả thi, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng bền vững. Nội dung các đạo luật điều chỉnh và lập mới bao gồm hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính dân sự, tư pháp, đất đai, tài nguyên khoáng sản, thuế…
Những đạo luật mới và đạo luật điều chỉnh đã đáp ứng kịp thời yêu cầu của quản lý xã hội bằng pháp luật trong quá trình đổi mới.
Thứ hai, hoạt động giám sát được tăng cường với sự kết hợp nhiều phương thức tổng hợp, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan Quốc hội, đặc biệt quan tâm tới các phản ánh của công luận, báo chí và của cử tri cả nước.
Thông qua hoạt động giám sát đã kịp thời phát hiện các vấn đề đang đặt ra, để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung để phát huy tính tích cực, giảm thiểu những hệ lụy nảy sinh từ chính sách, chấn chỉnh kịp thời những sai sót, khuyết điểm. Những nội dung giám sát của Quốc hội trong những năm qua đã đi thẳng vào các vấn đề kinh tế- xã hội bức thiết như các vấn đề liên quan đến đất đai, nhà ở, vấn đề sử dụng vốn, tài sản của nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty của nhà nước; về chất lượng giáo dục các cấp học; về vấn đề khám chữa bệnh của nhân dân... Các kết quả giám sát cùng với các đề xuất, kiến nghị có tính khả thi ngày càng tạo được sự đồng thuận trong xã hội, góp phần tích cực cho thực tiễn công cuộc đổi mới.
Thứ ba, việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng có chất lượng, đúng và trúng những yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước vì lợi ích quốc gia, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Trước bối cảnh của thế giới và trong nước vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa có những khó khăn, thách thức, diễn biến phức tạp, Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ để đề ra những quyết nghị, giải pháp phù hợp nhằm mục đích ổn định kinh tế xã hội, chuyển biến tình hình, tạo động lực cho quá trình đổi mới. Quốc hội đã quyết nghị các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, quyết nghị về ngân sách nhà nước, đề ra ưu tiên để ổn định kinh vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội; quyết định xây dựng các công trình, dự án đặc biệt quan trọng như Sân bay Long Thành, các tuyến đường cao tốc Bắc – Nam, các công trình về năng lượng, giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế. Những quyết định của Quốc hội trong suốt thời gian qua về các vấn đề quan trọng của đất nước đều cần thiết, đúng đắn và kịp thời, thể hiện bước tiến mới về năng lực lãnh đạo, quản lý xã hội và bản lĩnh vững vàng của Đảng, Nhà nước ta trong tiến trình đổi mới, sáng tạo, phát triển, tạo dựng cơ đồ của đất nước.
Thứ tư, hoạt động đối ngoại của Quốc hội kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới.
Trong những năm qua, Quốc hội tăng cường hoạt động đối ngoại song phương và đa phương, tích cực đẩy mạnh quan hệ hợp tác nhiều mặt trong khu vực và trên thế giới. Đó là việc củng cố quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, đẩy mạnh quan hệ với châu Âu, Hoa Kỳ, đưa các mối quan hệ vào thực chất, phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Những năm qua, Quốc hội đã cử nhiều đoàn đi thăm quốc hội các nước và mời nhiều đoàn đại biểu cấp cao các nước thăm Việt Nam. Quốc hội đã tăng cường hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và thế giới như Đại hội Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn nghị viện châu Á – Thái Bình Dương, Liên minh nghị viện thế giới, Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ, Hội nghị đối tác nghị viện Á – Âu.
Ngoại giao nghị viện những năm qua đã góp phần thúc đẩy, minh chứng sự đúng đắn và hiệu quả của phương thức ngoại giao Cây tre Việt Nam. Qua công tác đối ngoại nói chung của Đảng, Nhà nước và đối ngoại nghị viện, Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược toàn diện với 7 nước cường quốc trên thế giới như: Trung Quốc, Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia. Hoạt động ngoại giao nghị viện đạt nhiều kết quả tích cực góp phần đưa nước ta “sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ đã nói.
Trong cuốn sách “Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Giáo sư, Tiến sĩ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã xác định: “Quốc hội nước ta trong thời gian tới sẽ phát huy những kinh nghiệm và truyền thống vẻ vang của 65 năm qua, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động, đạt nhiều kết quả quan trọng, đóng góp to lớn hơn nữa vào công cuộc đổi mới”(3). Là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, Quốc hội đổi mới tổ chức và hoạt động bao đảm thực hiện ngày càng có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình đã tạo ra nguồn sinh lực mới mạnh mẽ cho hành trình đổi mới của đất nước, góp phần đặc biệt quan trọng trong việc tạo dựng cơ đồ của đất nước ta ngày càng giàu mạnh, tươi đẹp, vững bền.
1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.103-104.
[2].Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.10,tr.464.
[3].Nguyễn Phú Trọng: “Quốc hội trong tiến trình đổi mới đáp ứng yêu cầu xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật Hà Nội, 2024, tr. 405.