Tỷ lệ nội địa hóa còn rất thấp, công nghiệp điện tử cần bước đột phá
(DNTO) - Dù là quốc gia xuất khẩu điện tử lớn thứ 12 thế giới và thứ 3 trong khối ASEAN, nhưng có đến khoảng 95% giá trị thuộc khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Vì vậy, phát triển ngành công nghiệp điện tử rất cần bước đột phá.
Ngành công nghiệp điện tử ‘vươn mình’
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), thời gian qua sản xuất kinh doanh các sản phẩm điện tử nhìn chung tăng trưởng khá cao. Trong quý I/2021, ngành sản xuất điện thoại di động, điện tử và linh kiện đã đạt nhiều kết quả khả quan.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quý I/2021, sản xuất điện thoại di động đạt 54,4 triệu chiếc, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng sản xuất tivi cũng đạt hơn 4,45 triệu chiếc, tăng 30,9%. Điện thoại và linh kiện điện tử cũng là ngành có giá trị xuất khẩu lớn nhất trong các ngành xuất khẩu của Việt Nam trong quý I/2021, đạt 14,1 tỷ USD, chiếm 18,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước.
Nhóm sản phẩm điện tử, máy tính và linh kiện cũng đạt 12 tỉ USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng này vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các khối ngành, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó, điện thoại và linh kiện chiếm 99,1%; điện tử, máy tính và linh kiện chiếm 98%.
Năm 2020, sản phẩm điện thoại di động sản xuất đạt 253,2 triệu cái, gấp 1,3 lần năm 2016; tivi lắp ráp đạt hơn 18 triệu cái, gấp 1,7 lần năm 2016. Riêng nhóm hàng điện thoại di động và linh kiện xuất khẩu cả năm 2020 đạt 50,9 tỷ USD, giảm 1% so với năm 2019 do bị ảnh hưởng của dịch Covid-19. Hiện, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam chiếm tỷ trọng 17,8% toàn ngành công nghiệp, chủ yếu sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học. Sản phẩm chính của ngành này là linh kiện điện tử, điện thoại nguyên chiếc, linh kiện điện thoại, tivi lắp ráp, máy tính bảng, iPad và máy vi tính.
Đặc biệt, giai đoạn 2016 - 2020, ngành điện tử Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, với tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm là 13,94%, trong đó năm 2017 đạt mức tăng cao nhất 35,2%. Số lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực điện tử ngày càng tăng. Nhiều hãng điện tử lớn trên thế giới đã đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất sản phẩm điện tử công nghệ cao ở Việt Nam như Samsung, LG, Foxconn…
Doanh nghiệp FDI vẫn ở ‘cửa trên’
Mặc dù vậy, Cục Công nghiệp nhìn nhận, năng lực các doanh nghiệp nội địa trong ngành còn nhiều hạn chế, chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường. Trong khi đó, các doanh nghiệp điện tử nội địa có tiếng trước đây đang phát triển chậm lại hoặc mất dần thương hiệu và chiếm thị phần nhỏ. Mặc dù có một số nhãn hiệu điện tử trong nước mới nổi như điện thoại BPhone, Vsmart, Viettel... tuy nhiên thị trường điện - điện tử dân dụng trong nước chủ yếu do các thương hiệu nước ngoài chiếm lĩnh.
Tỉ lệ nội địa hóa ngành điện tử hiện nay rất thấp, chỉ khoảng 5-10%. Các sản phẩm điện tử trên thị trường Việt Nam đa số là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp trong nước bằng phần lớn các linh kiện nhập khẩu. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trong nước đã có tham gia vào chuỗi giá trị của ngành, tuy nhiên, đa số mới cung cấp các sản phẩm đơn giản có giá trị, hàm lượng công nghệ thấp.
“Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên chủ yếu là do năng lực các doanh nghiệp nội địa trong ngành còn nhiều hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường cũng như của các doanh nghiệp FDI. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp cung ứng trong nước với các doanh nghiệp FDI và các tập đoàn đa quốc gia còn mờ nhạt”- Cục Công nghiệp nhấn mạnh.
Doanh nghiệp Việt cần định hướng rõ sản phẩm chiến lược
Để hỗ trợ ngành công nghiệp điện tử phát triển, Bộ Công Thương đang triển khai nhiều chương trình, dự án hợp tác quốc tế, các doanh nghiệp FDI đã có những chính sách nhất định nhằm hỗ trợ các nhà cung ứng nội địa và bản thân các doanh nghiệp trong nước cũng rất nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh để gia nhập vào chuỗi cung ứng của các FDI.
Đơn cử như Samsung Việt Nam, từ 4 nhà cung ứng cấp 1 thuần Việt năm 2014 đã tăng lên 35 nhà cung ứng năm 2018. Panasonic Việt Nam hiện cũng có 4 doanh nghiệp Việt Nam cung ứng sản phẩm và giá trị cung ứng mới chiếm khoảng 10% giá trị linh kiện đầu vào sản xuất của Panasonic. Canon Việt Nam cũng liên tục tìm kiếm nhà cung cấp Việt Nam để tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Để có thể tận dụng cơ hội và thực thi hiệu quả Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA), theo Cục Công nghiệp, doanh nghiệp ngành điện tử cần nâng cao năng lực để có thể tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp đầu chuỗi đang hoạt động tại Việt Nam và tăng cường tham gia các hoạt động, sự kiện kết nối kinh doanh để có thể tận dụng được những cơ hội kết nối với doanh nghiệp điện tử EU.
Cục Công nghiệp cho rằng cần xây dựng các biện pháp bảo vệ thị trường điện – điện tử tiêu dùng (như thuế phòng vệ, hàng rào kỹ thuật, chống gian lận thương mại, hàng giả và hàng nhập lậu…). Đồng thời tập trung hỗ trợ một số doanh nghiệp triển vọng của Việt Nam trong lĩnh vực điện tử nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp này phát triển, đóng vai trò dẫn dắt thị trường điện tử trong nước, đặc biệt là các sản phẩm điện - điện tử gia dụng.
Bên cạnh đó, rà soát, hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt là quy định cụ thể về hàng hóa xuất xứ Việt Nam; thực hiện các giải pháp nhằm mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Ngoài ra, Cục Công nghiệp cũng lưu ý doanh nghiệp điện tử cần chú trọng hơn tới việc xác định các sản phẩm cốt lõi, có sức đột phá để thúc đẩy ngành điện tử phát triển nhanh và hiệu quả hơn nữa.
“Mỗi doanh nghiệp tự xác định cho mình những phân khúc sản phẩm và khách hàng phù hợp đồng thời cần tính đến khả năng đón đầu xu hướng tiêu dùng và phát triển công nghệ chung của thế giới trong thời đại hiện nay. Trên cơ sở đó giúp cho doanh nghiệp nội tập trung các nguồn lực để phát triển sản phẩm có năng lực cạnh tranh tốt”- Cục Công nghiệp nhấn mạnh.