Không chỉ là ‘tấm áo màu mè’, tiêu chuẩn xanh giờ là sống còn của doanh nghiệp
(DNTO) - Sức ép của thị trường ngày một nhanh hơn trong khi doanh nghiệp Việt Nam lại rất chậm chân trong việc “xanh hóa”.
Mới đây, câu chuyện dệt may Việt Nam mất đơn hàng bởi ngành dệt may Bangladesh, do chậm xanh hóa chuỗi cung ứng, đã khiến ngành sản xuất Việt Nam phải nhìn lại mình.
Bangladesh đã thực hiện chiến lược “xanh hóa” các nhà máy sản xuất trong nhiều năm qua, chứ không phải đợi đến khi “xanh hóa” trở thành yêu cầu bắt buộc của các nước nhập khẩu mới tiến hành thay đổi.
Theo Apparel Resources, Bangladesh có 67 nhà máy đạt chứng nhận LEED (định hướng thiết kế về năng lượng và môi trường), số lượng lớn nhất thế giới. Nước này đã thành lập các cơ quan giám sát về phòng cháy chữa cháy, an toàn lao động với hàng nghìn nhà máy tham gia.
Ở Việt Nam, “xanh hóa” cũng không còn là câu chuyện mới, mà đã được nhắc đến vài năm trở lại đây. Thông điệp xanh được nhắc đến trong các chủ trương, chính sách của Chính phủ, cho đến các bộ ngành, hiệp hội và cơ quan truyền thông…, nhưng dường như tác động đến sự thay đổi của doanh nghiệp trong nước vẫn còn rất ít. Kể cả hiện nay, trước sức ép rất lớn của thị trường quốc tế, thì sự thay đổi này cũng chưa thực sự mạnh mẽ.
Nhưng các đối tác, bạn hàng giờ đây không còn thể đợi nhà cung cấp Việt Nam có thêm lộ trình chuyển dịch. Họ đang có những động thái mạnh mẽ hơn trong việc gật đầu hoặc nói không với những sản phẩm không đáp ứng các tiêu chuẩn xanh.
Ngay trong đầu năm nay, EU - khu vực mà Việt Nam xuất siêu 31,4 tỷ USD trong năm 2022 và 14,5 tỷ USD trong nửa đầu năm nay, đã thông qua Thỏa thuận Xanh. Đây được xem là kế hoạch toàn diện để đạt được mục tiêu Net Zero. Chính sách này cũng sẽ đặt ra yêu cầu mới về tính bền vững của chuỗi cung ứng, buộc các doanh nghiệp có mối quan hệ giao thương với EU phải điều chỉnh hoạt động sản xuất.
Bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, kiêm nhiệm Bắc Âu chia sẻ, nói ngắn gọn thì EU sẽ yêu cầu các sản phẩm lưu thông trên thị trường phải có tính bền vững, có thể tái sử dụng, tái chế và tiết kiệm năng lượng. Thực phẩm cũng phải đáp ứng các yêu cầu, chứng nhận chung và và kế hoạch ghi nhãn.
“Các sửa đổi đang diễn ra và một khung pháp lý mới sẽ được đề xuất ngay trong năm nay”, bà Thúy cho biết và nhấn mạnh, Thỏa thuận Xanh có thể ảnh hưởng tới một số ngành công nghiệp của Việt Nam như dệt may da giày, bao bì và nông sản, thủy sản, thép.
Như vậy, nếu trước kia, yêu cầu bền vững chỉ là từ khóa “trend”, chỉ là sự lựa chọn để được ưu tiên trên bàn đàm phán, thì nay nó dần tiến tới luật hóa. Khi các tiêu chuẩn bền vững đã được luật hóa, thì những sản phẩm không đáp ứng được sẽ ngay lập tức bị đào thải khỏi thị trường.
Thế nhưng, để chuyển đổi xanh không chỉ cần nỗ lực. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể biết đến, hiểu được, nhưng để làm được hay không, bao giờ làm được thì là câu chuyện khác. Một trong những khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam, với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 90%, là thiếu vốn.
Mặc dù giai đoạn 2017 - 2022, dư nợ cấp tín dụng xanh tăng bình quân hơn 25%/năm, nhưng tỷ trọng vẫn còn rất nhỏ, chỉ chiếm 4,32% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Thiếu vốn khiến doanh nghiệp Việt rơi vào vòng luẩn quẩn: thiếu vốn - không đổi mới công nghệ, chuỗi cung ứng – năng suất kém, sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn – khó bán hàng và khó thu về giá trị cao – thiếu vốn.
Tại Bangladesh, Ấn Độ, các quốc gia này đã ban hành hạn mức tín dụng đối với các lĩnh vực có tác động tiêu cực với môi trường, khí hậu. Trung Quốc thì yêu cầu các ngân hàng phải thực hiện đánh giá rủi ro môi trường và xã hội, báo cáo với cơ quan quản lý. Các nước phát triển như Anh, Nhật Bản, Thụy Điển, Pháp, Úc, Hà Lan… công bố thông tin về rủi ro tài chính liên quan tới môi trường, khí hậu.
Theo các chuyên gia, Việt Nam đã hình thành thị trường tài chính xanh, nhưng tính thanh khoản còn thấp. Nguyên nhân là các nhà đầu tư còn thờ ơ với sản phẩm này, nên thị trường vắng bóng các “cá mập” trong cả tín dụng, cổ phiếu và trái phiếu xanh, dẫn đến thị trường kém hấp dẫn với nhà đầu tư quốc tế. Ở chiều ngược lại, nguồn cung các dự án xanh trên thị trường cũng chỉ “đếm trên đầu ngón tay”, chưa có nhiều tổ chức phát hành.
Động lực từ thị trường trong những năm qua chủ yếu đến từ lực đẩy chính sách từ Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, chưa phải đến từ thị trường. Vì vậy, theo chuyên gia việc tiêu chí, tiêu chuẩn thống nhất đối với các dự án xanh, chứng khoán, tín dụng xanh… là rất quan trọng để có thể xếp hạng, đánh giá một cách công khai, minh bạch, tạo động lực cho các bên tham gia thị trường này.