Định kiến không thể là bản án thứ hai

(DNTO) - Gần đây, dư luận xôn xao trước việc một doanh nhân, sau khi chấp hành xong án phạt tù, tham gia buổi làm việc với Chủ tịch một tỉnh để đề xuất dự án phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh đó. Thay vì ghi nhận thiện chí cống hiến và năng lực của người đã hoàn lương, nhiều ý kiến công khai nghi ngờ, cho rằng “người như vậy không xứng đáng ngồi cùng lãnh đạo địa phương”.

Doanh nghiệp tư nhân, kể cả do người từng vấp ngã làm chủ, vẫn có thể tạo việc làm, đóng thuế và góp phần phát triển kinh tế nếu được trao cơ hội tái lập cuộc sống và khẳng định lại giá trị thông qua lao động chân chính. Ảnh minh họa
Trong một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, thực tiễn xã hội còn tồn tại một khoảng tối không nhỏ, đó là tình trạng định kiến kéo dài, thậm chí nghiệt ngã hơn cả bản án hình sự, khiến những người từng lầm lỗi tiếp tục bị kỳ thị, xa lánh và cản trở quyền tái hội nhập cộng đồng.
Gần đây, dư luận xôn xao trước việc một doanh nhân, sau khi chấp hành xong án phạt tù, tham gia buổi làm việc với Chủ tịch một tỉnh để đề xuất dự án phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh đó. Thay vì ghi nhận thiện chí cống hiến và năng lực của người đã hoàn lương, nhiều ý kiến công khai nghi ngờ, cho rằng “người như vậy không xứng đáng ngồi cùng lãnh đạo địa phương”. Đây là một biểu hiện rõ ràng của hiện tượng “hình sự hóa bằng định kiến xã hội”, không chỉ đi ngược lại tinh thần pháp luật mà còn mâu thuẫn với mục tiêu phát triển con người, phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Pháp luật Việt Nam đã quy định rõ, người đã thi hành xong bản án hình sự được khôi phục các quyền dân sự, chính trị, kinh tế trừ khi pháp luật có quy định khác. Theo Bộ luật Hình sự hiện hành, người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích. Tại Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cũng quy định, người chấp hành xong án phạt tù được tạo điều kiện ổn định cuộc sống và tái hòa nhập cộng đồng. Chính phủ và các bộ, ngành cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật về các chính sách việc làm, tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù.
Như vậy, Nhà nước không những công nhận quyền hội nhập trở lại của người hoàn lương, mà còn xác lập trách nhiệm hỗ trợ từ thể chế và xã hội. Việc tiếp tục đánh giá con người dựa trên quá khứ đã được pháp luật xử lý là hành vi đi ngược lại nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự hiện đại. TS Lương Văn Tuấn (Học viện Tư pháp) cho rằng, nếu cá nhân, tổ chức đã chấp hành xong các nghĩa vụ pháp lý thì không thể ngăn họ tiếp tục hoạt động kinh doanh theo luật định. “Pháp luật không được phép nhân danh đạo đức để kéo dài hình phạt. Người đã thực hiện xong trách nhiệm hình sự cần được bảo vệ quyền công dân như bất kỳ ai” – TS Tuấn khẳng định.
Một khía cạnh đặc biệt cần nhấn mạnh là tinh thần cải cách của Đảng trong lĩnh vực kinh tế và pháp luật kinh tế. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 20/4/2024 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã nêu rõ: “Ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo”. Đây là bước ngoặt tư duy có tính chất thể chế, xác lập nguyên tắc xử lý hài hòa giữa trách nhiệm hình sự và yêu cầu bảo vệ năng lực sản xuất, ổn định xã hội.
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nhân sau khi thi hành xong án phạt đã chủ động khắc phục hậu quả, tái thiết lập doanh nghiệp, giữ gìn việc làm và tiếp tục đóng góp cho cộng đồng. Tuy nhiên, khi trở lại xã hội, họ vẫn thường xuyên phải đối mặt với định kiến kéo dài. Theo Luật sư Nguyễn Văn Phúc (Công ty Luật TNHH HM&P), việc xã hội hoài nghi, trì hoãn hoặc tước bỏ cơ hội tái lập doanh nghiệp của người từng vi phạm là hành vi lãng phí nguồn lực, triệt tiêu động lực cải tạo và mâu thuẫn với định hướng thể chế hóa nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Xét từ góc độ tâm lý học xã hội, hiện tượng “gán nhãn xã hội” (labeling) được nhiều nghiên cứu chỉ ra là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đứt gãy cơ hội phục hồi nhân phẩm. Khi một người bị dán nhãn “phạm tội”, họ thường khó nhận được sự tin tưởng từ xã hội, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình tái hoà nhập, thậm chí tái phạm. Nếu định kiến trở thành chuẩn mực chi phối cơ hội sống của một con người, thì bản án xã hội vô hình ấy còn khắc nghiệt hơn cả bản án của pháp luật.
Trong bối cảnh Đảng, Nhà nước đang nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân như một động lực quan trọng của nền kinh tế, thì việc cởi trói định kiến, đặc biệt với những doanh nhân từng “vấp ngã”, là một yêu cầu mang tính thực tiễn và chiến lược. Gỡ bỏ định kiến không chỉ là hành vi mang tính nhân đạo, mà còn là hành động bảo vệ nguồn lực quốc gia, khuyến khích sửa sai, nâng cao năng suất và giữ gìn ổn định xã hội.
Công lý không thể là sự kéo dài của cảm tính, và phát triển không thể dựa trên sự loại trừ. Một xã hội văn minh phải biết nhìn vào tương lai con người thay vì nhốt họ trong lồng quá khứ. Người đã hoàn lương không cần “xin phép” để được sống đàng hoàng. Họ chỉ cần được sống đúng với tư cách công dân một cách công bằng, đúng pháp luật và đầy nhân phẩm.