‘Xanh’ theo COP26… Tiền đâu?
(DNTO) - 473 tỷ USD là tổng số tiền mà Việt Nam cần để thích ứng với biến đổi khí hậu và thực hiện đưa phát thải ròng về 0 theo cam kết tại COP26, đây là số tiền khá lớn mà nếu chỉ từ nguồn lực trong nước thì khó thực hiện được.
Thách thức lớn về tài chính
Ước tính của Ngân hàng Thế giới, đến năm 2025, Việt Nam cần thêm 100 tỷ USD để đối phó với biến đổi khí hậu, 373 tỷ USD để đưa mức phát thải về 0 vào năm 2050 theo cam kết tại Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc lần thứ 26 (COP 26).
Cho biết tại Hội thảo "Tác động của COP26 đến chuyển dịch năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh", sáng 17/8, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhìn nhận, để đạt được mục tiêu chuyển đổi năng lượng và phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 như đã cam kết, vấn đề lớn nhất ở đây chính là nguồn lực thực hiện.
“368 tỷ USD trong giai đoạn 2022-2040 xấp xỉ 6,8% GDP mỗi năm. Trong đó, riêng lộ trình xây dựng khả năng chống chịu sẽ chiếm khoảng 2/3 số tiền này vì cần huy động lượng vốn đáng kể để bảo vệ tài sản, cơ sở hạ tầng cũng như những người dân dễ bị tổn thương. Chi phí của lộ trình khử CO2 chủ yếu phát sinh từ ngành năng lượng, gồm chi phí đầu tư vào năng lượng tái tạo và quản lý quá trình chuyển dịch ra khỏi năng lượng than, có thể tiêu tốn khoảng 64 tỷ USD giai đoạn 2022-2040”, bà Bích Ngọc cho biết.
Để thực hiện các cam kết xanh hóa, điều quan trọng và tiên phong là chuyển dịch năng lượng. Trong khi đó, nhu cầu năng lượng và điện của Việt Nam trong những năm tới tiếp tục tăng nhanh, để song hành với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy, việc vừa đảm bảo an ninh năng lượng phục vụ cho phát triển kinh tế, vừa chuyển dịch năng lượng, là một thách thức không nhỏ.
Do vậy nên theo ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công thương, việc chuyển dịch năng lượng không chỉ là vấn đề của nội bộ ngành năng lượng, mà chính là chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế từ mô hình thâm dụng nhiều năng lượng sang mô hình sử dụng năng lượng một cách hiệu quả.
“Để thúc đẩy năng lượng phát triển nhanh, bền vững, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển của nền kinh tế và đời sống dân sinh, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, thu hút vốn đầu tư của toàn xã hội, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào ngành năng lượng, khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo là định hướng nhất quán của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để phát triển nguồn năng lượng theo hướng bền vững, đảm bảo cung cấp nguồn cung ổn định với giá thành hợp lý luôn là thách thức đối với các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam”, ông Đặng Hoàng An chia sẻ.
Trách nhiệm không của riêng ai
373 tỷ USD để thực hiện cam kết đưa mức phát thải về 0 vào năm 2050, theo ông Phạm Văn Tấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường), là không kèm theo điều kiện sử dụng các biện pháp chính sách và nguồn ngân sách nhà nước, đầu tư của doanh nghiệp trong và ngoài nước, vốn vay thương mại và sự đóng góp đầu tư của người dân…
Vì vậy, theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, Việt Nam không chỉ triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ bằng nguồn lực của chính mình, mà cần sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ.
"Tôi muốn lưu ý tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc hợp tác nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ năng lượng trên phạm vi toàn cầu (đặc biệt là công nghệ sản xuất điện năng quy mô lớn từ các nguồn năng lượng sơ cấp mới như Hydro, Amoniac, công nghệ lưu trữ năng lượng tiên tiến, công nghệ hấp thụ và lưu trữ CO2...), đồng thời phải sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế ", ông Đặng Hoàng An nhấn mạnh.
Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc cũng cho rằng Việt Nam sẽ khó thành công khi chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững mà không có sự cam kết hỗ trợ về mặt tài chính/kỹ thuật thực sự từ các quốc gia phát triển.
Bên cạnh đó, đưa phát thải ròng về 0 là trách nhiệm của tất cả các bên, từ cơ quan quản lý cho đến người dân. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; hướng đến sử dụng các sản phẩm/dịch vụ thân thiện với môi trường, là rất quan trọng.
Thế nhưng, để khơi thông nguồn lực quốc tế, đại diện Tập đoàn Tài chính quốc tế (IFC) cho biết, những đối tác như IFC rất kỳ vọng các tổ chức tín dụng của Việt Nam tài trợ cho các dự án xanh, nhưng hiện các ngân hàng không mấy mặn mà do chưa biết cách vận hành cơ chế tài chính xanh, đánh giá rủi ro, quy trình thủ tục dự án xanh.
“Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra hướng dẫn chi tiết hơn cho các tổ chức tín dụng để triển khai. Ngoài ra, IFC có thể bảo lãnh một phần cho tín dụng của ngân hàng, có thể chịu 50% rủi ro mất vốn hoặc lợi nhuận. Đó là cách giảm bớt nguồn vốn và rủi ro mà hệ thống ngân hàng Việt Nam phải gánh chịu”, đại diện IFC cho biết đơn vị này có khả năng hỗ trợ toàn bộ thị trường, điều quan trọng là cần có những cơ chế, sản phẩm đặc thù để phối hợp tài trợ cho các dự án xanh.