'Tỷ giá đang đi theo hướng riêng'

(DNTO) - Diễn biến của tỷ giá VND/USD không còn xuất phát từ các yếu tố quốc tế như DXY hay CNY, mà đến từ sự thay đổi trong chiến lược cấu trúc vốn và nghĩa vụ trả nợ ngoại tệ, điều này có thể tạo nên áp lực mang tính dài hạn, ông Trần Ngọc Báu - CEO Công ty Dữ liệu Kinh tế Tài chính WiGroup cho biết.
Diễn biến tỷ giá đi theo xu hướng tăng là chủ đạo thời gian qua. Từ khoảng giữa tháng 3 đến nay, tỷ giá trung tâm đã tăng khoảng 236 đồng, từ 24.754 VND/USD ngày 10/3 lên 24.990 VND/USD ngày 12/6. Ngày 4/6 vừa qua, tỷ giá VND/USD đạt mức cao nhất trong lịch sử: 25.004.
Trong khi đó, chỉ số đô la Mỹ (DXY) không ngừng đi xuống. Sau khi lên mức cao gần 110 điểm vào tháng 1 thì giữa tháng 3, chỉ số này còn khoảng 103 điểm. Ngày 12/6, DXY giảm còn 96 điểm. Ngược chiều, đồng CNY lại tăng giá so với USD, kéo theo CNY/USD rơi xuống mức thấp trong khoảng hơn nửa năm qua.
Như vậy, trong khi USD giảm mạnh và đồng CNY tăng giá so với USD thì riêng đồng VND lại có dấu hiệu mất giá. Ông Trần Ngọc Báu, tại chương trình Data Talk diễn ra ngày 12/6, cho biết, “DXY vận hành theo hướng của DXY, CNY đi theo hướng của CNY, còn Việt Nam lại có diễn biến tỷ giá theo hướng riêng của mình”.

Ảnh minh họa
Thông thường sức mạnh của VND sẽ phụ thuộc nhiều vào sức mạnh của đồng nhân dân tệ và đô la Mỹ thông qua chỉ số DXY, quy luật này đã diễn ra nhiều năm nay, tuy nhiên khoảng tầm chừng ba tháng nay thì quy luật này bị phá vỡ.
Theo lý giải của chuyên gia, nguyên nhân đến từ các vấn đề chính như cấu trúc của dòng vốn trong nền kinh tế thay đổi, áp lực trả nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp trong nước.
Hiện xuất khẩu trong nước vẫn giữ nhịp tăng trưởng tốt tuy nhiên có thể nhận thấy động lực dẫn dắt chủ yếu lại đến từ khu vực FDI, ngoài ra thặng dư thương mại đang có xu hướng giảm. Điều này được cho sẽ gây áp lực lên tỷ giá và thanh khoản hệ thống.
Ngoài ra, câu chuyện tỷ giá đang bị ảnh hưởng bởi cung cầu ngoại tệ. Trong giai đoạn hiện tại và trong vòng 6 tháng đến 1 năm tới, khối Chính phủ và tư nhân đều đẩy mạnh trả nợ bằng ngoại tệ dẫn đến nhu cầu USD ngày càng cao.
Ông Báu lý giải, lãi suất cho vay trong nước đang ở khoảng 7-8%. Trong khi đó vay quốc tế, doanh nghiệp tư nhân phải trả mức lãi suất cộng cả phần bù rủi ro lên tới khoảng 8 - 9%, thêm mất tỉ giá khoảng chừng 4-5%, theo đó chi phí vay rơi vào 12- 13%. Như vậy, khối tư nhân sẽ không còn muốn vay quốc tế, tuy nhiên khi muốn trả nợ nước ngoài, họ sẽ tính đến chuyện vay trong nước để đảo nợ và điều này đẩy nhu cầu đô la tăng mạnh.
"Ước tính của tôi, riêng khối tư nhân, cần khoảng 4 đến 5 tỷ đô la đưa ra nước ngoài trả nợ ròng mỗi năm. Điều này khác hoàn toàn so với trước đây, khi khối này mỗi năm vay ròng 3-4 tỷ đô la mang về nước", ông Báu cho biết.
Ngay khu vực công cũng đã thay đổi hoàn toàn chiến lược vay nợ. Giai đoạn trước 2020, Chính phủ hướng đến vay nợ ròng bằng đô la khá nhiều, số dư lên tới khoảng 1,4 triệu tỷ đô la, bao gồm cả khoản vay Chính phủ bảo lãnh và khoản vay của Chính phủ. Nhưng ba năm qua, con số này đã giảm xuống chỉ còn 1,1 triệu tỷ đồng.
Như vậy, cả khối tư nhân và khu vực công đều cần nguồn đô la lớn chỉ để trả nợ ròng, đảo ngược hoàn toàn so với trước đây khi Việt Nam thường xuyên đón nhận dòng vốn USD ròng từ cả hai khu vực. Điều này có nghĩa, Kho bạc Nhà nước cũng phải mua đô la từ hệ thống ngân hàng thương mại với quy mô lớn lên tới hàng triệu tỷ đồng mỗi năm để trả nợ ròng nước ngoài.
"Áp lực tỉ giá có thể còn dài chưa thể giải quyết sớm hay muộn được và cũng không phụ thuộc vào CNY hay DXY mà xuất phát từ nhu cầu thanh toán nghĩa vụ nợ khi nội tại trong nước thay đổi về chiến lược cấu trúc vốn từ cả chính phủ đến khối tư nhân", ông Báu cho biết.
Cũng theo chuyên gia, với thị trường tiền tệ, thanh khoản hệ thống ngân hàng duy trì trung bình, nhà điều hành khó có thể thực hiện chính sách tiền tẹ nới lỏng. Lãi suất huy động cũng sẽ khó có dư địa giảm, thậm chí có thể đi ngang hoặc tăng nhẹ tại một số khu vực.