Nhiều công ty đang chuyển sang sử dụng LNG
(DNTO) - Theo chuyên gia, nhu cầu sử dụng LNG tại Việt Nam sẽ tập trung tại 4 lĩnh vực: sản xuất điện, công nghiệp, sản xuất phân bón và hóa dầu.
LNG (khí tự nhiên hóa lỏng) được biết đến vào cuối thế kỷ 19 và ngày càng được phổ biến tại nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, LNG trở thành con “át chủ bài” của xu thế năng lượng mới vì đây là nhiên liệu quan trọng của điện khí, nguồn điện nền ổn định cho phát triển năng lượng tái tạo.
Khi cháy, LNG có thể tạo ra ngọn lửa có nhiệt độ rất cao (khoảng 1.880 độ C), có khả năng cháy hoàn toàn, không để lại cặn, đảm bảo an toàn hơn cho thiết bị máy móc, giảm hao mòn, tăng tuổi thọ. LNG khi đốt cháy tạo ra ít hơn 40% khí thải CO2 so với than đá, ít hơn 30% so với dầu mỏ. Điều này khiến LNG trở thành nhiên liệu sạch nhất so với các loại nhiên liệu truyền thống.
Chia sẻ trong hội thảo về chuyển đổi xanh ngành công nghiệp liên quan đến ứng dụng LNG chiều 30/1, TS. Nguyễn Hữu Lương, Chuyên gia cao cấp – Viện Dầu khí Việt Nam hiện nay, thị trường sử dụng chủ yếu của khí thiên nhiên sẽ là những nhà máy sản xuất điện, nhà máy sản xuất điện khí, nhà máy sản xuất điện LNG. Bên cạnh đó, LNG cũng sẽ được sử dụng trong công nghiệp và dịch vụ...
Theo vị này, LNG hiện ứng dụng chính trong 5 lĩnh vực gồm dân dụng và thương mại (nấu ăn, sưởi ấm hộ gia đình và tòa nhà); giao thông vận tải (thay thế cho DO & FO); trong công nghiệp (sản xuất thép, xi măng, gốm); trong hóa chất/hóa dầu (sản xuất phân bón, các loại nhựa, xơ, sợi…); điện khí/LNG sạch hơn ½ phát thải so với điện than truyền thống, là bước chuyển tiếp từ than sang năng lượng tái tạo.
Cụ thể, trong công nghiệp, LNG là một loại nguyên liệu đốt sạch, sản sinh lượng khí thải CO2 ít hơn đáng kể so với các loại nhiên liệu hóa thạch truyền thống. LNG cũng hiệu quả hơn các dạng khí tự nhiên khác vì nó tiêu tốn ít năng lượng hơn để làm lỏng và vận chuyển trên khoảng cách dài.
Trong xây dựng, LNG là một nguồn nhiên liệu sạch hơn nhiều so với dầu diesel truyền thống, có nghĩa là ít khí thải độc hại hơn tại các công trường xây dựng. Thiết bị xây dựng chạy bằng LNG có thể mang lại tiết kiệm chi phí đáng kể do chi phí nhiên liệu thấp hơn và tuổi thọ động cơ lâu hơn. LNG cũng có thể sử dụng tại các công trường xây dựng ở vùng sâu vùng xa, nơi các nguồn nhiên liệu khác có thể không dễ dàng tiếp cận.
Trong logistics, vận tải, LNG là một nguồn nhiên liệu sạch hơn cho tàu vận tải, sản xuất ra lượng lưu huỳnh và chất thải rắn đáng kể ít hơn so với dầu DO truyền thống. Các tàu chạy bằng LNG cũng có thể yên tĩnh và tiết kiệm nhiên liệu hơn so với các tàu truyền thống.
“Với nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng bền vững, nhiều ngành công nghiệp, nhiều công ty đang chuyển sang sử dụng LNG như một cách để giảm lượng khí thải carbon, tuân thủ các quy định và giảm thiểu tác động môi trường của họ”, ông Lương nói.
Về nhu cầu thị trường khí Việt Nam, bao gồm khí tự nhiên nội địa và khí LNG nhập khẩu giai đoạn 2030 – 2050, cơ cấu nguồn cung khí tại Việt Nam từ nguồn mỏ trong nước sẽ chiếm từ 40% – 45%, nhu cầu khí nhập khẩu LNG ở Việt Nam sẽ giao động từ 55% - 60%. Nhu cầu sử dụng LNG sẽ tập trung tại 4 lĩnh vực: sản xuất điện; công nghiệp; sản xuất phân bón và hóa dầu.
Nhiều chuyên gia năng lượng nhận định, Việt Nam đang trên đà trở thành “người chơi lớn” trên thị trường LNG toàn càu, bất chấp những dự đoán và nghi ngại do rào cản giá và khả năng kí hợp đồng dài hạn.
Shell, tập đoàn năng lượng tư nhân lớn thứ hai thế giới, cho biết đã có sự tăng trưởng vượt bậc trên thị trường LNG trong thời gian vừa qua, đồng thời nhấn mạnh có 3 quốc gia là động lực chính cho sự tăng trưởng này, trong đó có Việt Nam.
Hãng tin Sputnik của Nga cũng cho rằng Việt Nam là thị trường màu mỡ cho các nhà cung cấp khí. Hiện tại có ít nhất 2 tập đoàn lớn gồm NOVATEK và ExxonMobil của nước này đã làm việc với PV GAS của Việt Nam để tìm kiếm cơ hội cung cấp LNG cho Việt Nam.