Mỳ chũ Bắc Giang sang Nhật, Hàn, EU và cách doanh nghiệp làm ăn với người nông dân
(DNTO) - Quyền lợi đi liền với trách nhiệm và phải được thể hiện rõ bằng các cam kết trong hợp đồng, là cách doanh nghiệp thương mại có thể làm ăn lâu dài với người dân dân.
Là một trong số ít các sản phẩm nông sản xuất ngoại, mỳ Chũ Nam Thể, đặc sản của Bắc Giang đã đạt chứng nhận bảo hộ độc quyền nhãn mác hàng hóa tại 5 nước châu Á (Lào, Campuchia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan), đã bước đầu bước chân sang các nước châu Âu.
Mặc dù sản phẩm đã có chứng nhận ISO, OCOP, nhưng theo ông Nguyễn Văn Nam, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất và Tiêu thụ mỳ Chũ Nam Thể, không thể hài lòng với những gì đã có mà càng phải làm tốt hơn vì như thế mới đảm bảo sản phẩm có thể đi lâu dài.
“Nhu cầu của sản phẩm mỳ Chũ ngày càng tăng vì chúng tôi quản lý được sản lượng, chất lượng đồng đều, như vậy thị trường mới yêu quý. Năm 2022, HTX đạt sản lượng gần 1.000 tấn”, ông Nam chia sẻ trong Tọa đàm “Phát triển sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu Vùng đồng bào dân tộc miền núi”, hôm 25/5.
Hiện sản lượng mỳ Chũ chỉ đáp ứng 20% nhu cầu xuất khẩu. Bởi công đoạn phơi còn phụ thuộc vào ánh nắng tự nhiên, ngày mưa buộc phải dừng sản xuất. Tuy nhiên, ông Nam cho biết, mỳ Chũ ngon do được tạo ra bởi bàn tay của người làm nghề, cái nắng, cái gió của tự nhiên. Rất nhiều sản phẩm mỳ làm từ gạo theo cách công nghiệp nhưng không đảm bảo hương vị truyền thống.
Nhưng để việc sản xuất giữ được hương vị nhưng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn xuất khẩu, Hợp tác xã Nam Thể sử dụng tem truy xuất nguồn gốc. Khoảng 10 năm trở lại đây, mỗi hội viên trong hợp tác xã được gắn một mã số. Khi ra thị trường, sản phẩm gặp vấn đề về chất lượng (bụi, sạn, ẩm mốc, hôi…) sẽ biết được do hộ nhà nào sản xuất.
“Tem truy xuất nguồn gốc khẳng định vị trí của nhà sản xuất. Đặc biệt, người dân cũng có trách nhiệm hơn. Với mỳ chũ, chúng tôi khoán sản phẩm đến từng hội viên. Bà con có mã số, muốn giữ nghề phải sản xuất nghiêm túc. Giữa hợp tác xã và người nông dân phải có cam kết về quyền lợi và trách nhiệm. Hợp tác xã cam kết thị trường tiêu thụ, đảm bảo đầu ra. Người nông dân phải cam kết sản xuất xanh, sạch, đảm bảo tiêu chuẩn”, ông Thể nói.
Tương tự mỳ Chũ, mới đây, 7,5 tấn đậu đũa ngâm muối của nông dân xã Gia Phú (huyện Bảo Thắng, Lào Cai) đã xuất khẩu thành công sang Nhật Bản. Bắt đầu từ vụ xuân năm nay, nông dân Gia Phú tiếp tục trồng đậu đũa xuất khẩu với quy mô đăng ký luân kỳ 6ha. Hợp tác xã liên kết sẽ thu mua, sơ chế tại chỗ theo tiêu chuẩn của Nhật Bản, ký hợp đồng xuất khẩu qua Công ty Xuất nhập khẩu Nông sản Việt Nam.
Câu chuyện đậu đũa Gia Phú khiến nhiều người đặt tia hi vọng mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, ông Hoàng Trọng Thủy, chuyên gia nông nghiệp cho biết mô hình giống như đậu đũa để mở rộng tại Việt Nam còn khó khăn vì để đạt được các tiêu chuẩn xuất khẩu cao như của Nhật Bản, cần hệ sinh thái từ đất, nước, khí hậu, địa hình, tập quán canh tác… rất gắt gao.
Trong khi đó, doanh nghiệp xuất khẩu của ta còn ít, liên kết với dân còn hạn chế, có thể do thiếu vốn, thiếu khoa học kĩ thuật hay ngay cả vị trí địa lý quá xa khiến chi phí quản lý tăng lên. Đó là lý do doanh nghiệp gắn bó với nông nghiệp còn chậm. Bên cạnh đó, tập quán của người dân lao động theo kinh nghiệm, thói quen. Mà để một sản phẩm xuất khẩu phải đảm bảo ít nhất 130 tiêu chuẩn. Do đó để thay đổi thói quen sản xuất mất thời gian rất dài và cán bộ nông nghiệp phải thực sự gắn bó sâu sắc với người dân.
Bà Trần Thanh Bình – Trưởng phòng Phòng XNK hàng Nông – Lâm - Thuỷ sản, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cho biết Bộ Công thương qua các hoạt động xúc tiến thương mại cũng đã truyền thông, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm thông qua chương trình Food of Vietnam. Trong đó có 9 sản phẩm nông sản được chú trọng: ngũ cốc, chè, rau quả, trái cây, hạt tiêu, hạt điều, cà phê…
Tuy nhiên để xây dựng thương hiệu và định vị cho mặt hàng nông sản phải bắt nguồn từ việc xây dựng chiến lược dài hạn ở cả 3 cấp độ: doanh nghiệp/hợp tác xã, địa phương và cơ quan quản lý nhà nước. Với doanh nghiệp, cần chủ động đưa ra chiến lược cho sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn các thị trường. Đây là điều kiện tiên quyết khi làm thương hiệu. Từ đó, địa phương và cơ quan quản lý địa phương mới có cơ sở để hỗ trợ.
“Câu chuyện vải thiều, mỳ Chũ rất thành công nhưng vẫn còn rất nhỏ. Mỗi địa phương trên cả nước hiện này còn sản xuất tự phát, chưa tập trung, chưa quy mô và theo sự chủ động của từng địa phương. Do đó việc kiểm soát về chất lượng, quy trình sản xuất để đưa mẫu mã sản phẩm đồng đều còn hạn chế”, bà Bình nói.
Đại diện Bộ Công thương cũng cho biết thời gian tới sẽ tập trung rà soát các cơ sở pháp lý tiến hành các hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu theo đặc thù của từng địa phương, để mỗi địa phương phát huy tối đa năng lực sản xuất và tiếp cận thị trường xuất khẩu.