Lo ngại mất thị phần vào tay thép ngoại nhập
(DNTO) - 6 tháng qua, thép HRC nhập khẩu vào Việt Nam lên tới 6 triệu tấn, bằng 171% sản xuất trong nước. Đại diện ngành lo ngại việc nhập khẩu ồ ạt có thể khiến doanh nghiệp nội địa mất thị phần thép HRC vì không khai thác được hết công suất.
Khó cạnh tranh với thép nhập khẩu
6 tháng đầu năm, Việt Nam nhập khẩu tới 6 tấn thép HRC, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái. Lượng nhập khẩu này bằng 173% so với sản xuất trong nước. Trong đó, lượng thép nhập từ Trung Quốc chiếm 74%, còn lại là từ Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và các quốc gia khác.
Đáng chú ý, thép nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam ngay cả khi Bộ Công thương chính thức tiếp nhận hồ sơ của các doanh nghiệp trong nước đề nghị điều tra áp thuế chống bán phá giá với thép cán nóng nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ (ngày 14/6/2024).
Ông Nghiêm Xuân Đa, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho hay, con số nhập khẩu thép HRC gia tăng ồ ạt trong nửa đầu năm nay là đáng bởi động. Bởi nhu cầu thép cán nóng tại Việt Nam khoảng 12-13 triệu tấn/năm, nhưng các nhà máy trong nước hiện đã đáp ứng khoảng 9 triệu tấn.
Thời gian qua, thép nhập khẩu ồ ạt tràn vào Việt Nam, có thời điểm sản lượng gấp gần 200% sản xuất trong nước. Đáng chú ý, sản phẩm thép HRC từ Trung Quốc có giá rất thấp, bình quân 560 USD/tấn, thấp hơn thấp hơn mức giá chào trong nước khoảng 15-20 USD/tấn và thấp hơn giá của các quốc gia khác 45 - 108 USD/tấn. Điều này khiến doanh nghiệp sản xuất không thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu giá rẻ, buộc phải giảm công suất.
“Năm ngoái, lượng thép sản xuất trong nước chỉ đạt 6,7 triệu tấn, tương đương 79% công suất thiết kế, giảm mạnh so với mức 86% của 2021. Trong khi đó lượng thép nhập khẩu lên tới 9,6 triệu tấn, gấp 1,5 lần sản xuất trong nước. Thị phần bán HRC của một số doanh nghiệp trong nước vì thế cũng sụt giảm. Hòa Phát và Formosa đã giảm 12% từ năm 2021 đến 2023 và hiện tiếp tục suy giảm”, ông Đa dẫn chứng.
Về phía doanh nghiệp, ông Phạm Công Thảo, Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Thép Việt Nam, cho biết thời gian vừa qua, một số sản phẩm thép nội địa chịu áp lực rất lớn từ thép nhập khẩu.
Ngành thép Việt Nam thời gian qua vẫn chủ yếu phát triển chiều rộng hơn chiều sâu, với công suất lớn, thậm chí nhiều sản phẩm vượt công suất cho nhu cầu trong nước. Tuy vậy, thép không gỉ, thép hợp kim phục vụ cho hoạt động chế biến chế tạo, công nghiệp quốc phòng ta chưa sản xuất được, vẫn cần phải nhập khẩu.
Vì vậy, ông Thảo cho rằng cần hoàn thiện quy định, quy chuẩn của ngành thép, giúp lành mạnh hóa thị trường nội địa vì nó sẽ giảm hàng giả hàng nhái, hàng kém chất lượng và nó cũng là rào cản kĩ thuật cho sản phẩm thép nhập khẩu trên thị trường.
“Cần có những định hướng chính sách ưu đãi cho các sản phẩm có giá trị gia tăng, hàm lượng chất xám cao, chất lượng cao như thép đặc biệt hay thép hợp kim, thép không gỉ…, vì những loại thép này rất quan trọng trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo, công nghiệp quốc phòng”, ông Thảo nói.
Sử dụng “tấm khiên” phòng vệ thương mại
Ngành thép Việt Nam đã phải chịu 73 vụ điều tra phòng vệ thương mại từ các nước. Ngược lại, chúng ta cũng triển khai điều tra 10 vụ việc với thép nhập khẩu với một số sản phẩm như phôi thép và thép xây dựng, tôn mạ mầu, thép tôn mạ….
Liên quan đến vụ việc điều tra thép HRC nhập khẩu, theo quy định, kể từ ngày chính thức tiếp nhận hồ sơ đầy đủ, Bộ Công thương sẽ có thời gian 45 ngày để thẩm định trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Lãnh đạo của Tổng Công ty Thép Việt Nam cũng cho biết việc sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ ngành sản xuất trong nước là rất tốt, nhưng cũng phải cân nhắc từng trường hợp. Bởi một số chuyên gia cũng lo ngại các nước khác cũng sẽ có hành động tương tự với sản phẩm của Việt Nam. Vì trong thị trường xuất khẩu, Việt Nam là nước lớn trong xuất khẩu thép nhưng các thị trường nhập khẩu tăng cường áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại để hạn chế sản lượng xuất khẩu của ta.
“Chúng tôi mong muốn áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại với sản phẩm thép mà công suất trong nước đã đáp ứng hoàn toàn nhu cầu. Còn những sản phẩm công suất trong nước không đủ, phải nhập khẩu thì phải cân nhắc lợi ích tập thể, đánh giá kĩ để có quyết định phù hợp”, ông Thảo kiến nghị.
Ông Chu Thắng Trung, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công thương) cho biết trước bối cảnh nhiều hàng hóa nhập khẩu có dấu hiệu bán phá giá hoặc được trợ cấp gây thiệt hại nghiêm trọng cho một số ngành sản xuất trong nước, Bộ Công thương cũng cân nhắc tăng cường công tác khởi kiện, điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, đẩy mạnh tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các ngành sản xuất trong nước.
“Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại hợp lý, phù hợp với cam kết quốc tế sẽ bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước những hành vi cạnh tranh không bình đẳng, trong dài hạn cũng giúp nền kinh tế không bị phụ thuộc vào nhập khẩu”, ông Trung nói.
Để phát triển ngành thép trong nước theo chiều sâu, Bộ Công Thương đã xây dựng Chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Dự kiến Chiến lược sẽ sớm trình Thủ tướng Chính phủ.
Bộ này cũng đang hoàn tất dự thảo Luật Phát triển công nghiệp trọng điểm để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành. Mục tiêu dài hạn là phát triển ngành công nghiệp thép trở thành ngành công nghiệp nền tảng quốc gia.