Dấu vết ‘vòi bạch tuộc’ của các công ty Ấn Độ tại Việt Nam
(DNTO) - Các doanh nghiệp Ấn Độ không ngại tiến vào những thị trường mới nổi như Việt Nam để tìm kiếm cơ hội. Đây là một trong những cách giúp doanh nghiệp và nền kinh tế nước này tăng trưởng thần tốc.
Thương nhân Ấn Độ tìm đến tận Yên Bái
Ấn Độ hiện là một trong những trung tâm sản xuất dược phẩm lớn nhất thế giới, nơi chiếm hơn 60% lượng vaccine được sản xuất trên toàn cầu. Đây cũng là nhà cung cấp thuốc gốc (thuốc generic) lớn nhất thế giới. 40% lượng thuốc gốc của Mỹ được nhập từ Ấn Độ.
Để phát triển ngành dược liệu, các thương nhân Ấn Độ không ngại đi đến khắp ngóc ngách trên thế giới để tìm kiếm nguồn cung. Ông Bùi Trung Thướng, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Ấn Độ cho biết Ấn Độ là cường quốc về dược liệu, chỉ sau Trung Quốc. Quốc gia tiêu thụ sản phẩm quế, hồi hàng đầu thế giới. Về sản xuất, đến 2022, sản lượng sản xuất gia vị nước này 11-12 triệu tấn. Xuất khẩu gia vị và dược liệu đạt 5 tỷ USD.
Nước này mới thành lập Bộ Dược liệu và Y học Cổ truyền, bao gồm cả thực hành yoga, vì họ cho rằng phải kết hợp giữa y học và thực hành trong chữa bệnh. Bên cạnh đó, Ấn Độ có Ban Gia vị (chức năng kết hợp giữa Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp của Việt Nam) để phát triển vùng trồng, vùng nguyên liệu, thành lập viện nghiên cứu, thúc đẩy thị trường. Năm ngoái, Ấn Độ nhập khẩu 32.600 tấn quế từ Việt Nam, chiếm 85,6% tổng lượng nhập khẩu quế của nước này, số còn lại là nhập từ Trung Quốc, Nepal, Sri Lanka, Indonesia…
“Ấn Độ thích quế Việt Nam vì hàm lượng tinh dầu tốt, mùi hương đặc trưng. Họ nhập khẩu quế Việt Nam với 2 mục đích: chế biến, sản xuất và tiêu thụ trong nước. Tất cả sản phẩm nổi tiếng của Ấn Độ như trà, các món ăn masala… đều dùng quế. Thứ hai, Ấn Độ mua quế để ép tinh dầu đưa vào sản phẩm có giá trị gia tăng, xuất khẩu sang rất nhiều nước, trong đó có thị trường lớn là Mỹ”, ông Thướng nói.
Vị này cho biết, một nguyên nhân khiến Ấn Độ nhập nhiều quế Việt Nam là do Hiệp định ASEAN - Ấn Độ, giúp sản phẩm hưởng mức thuế ưu đãi 0%, đây là lợi thế hơn so với nhập từ nước khác. Tại Ấn Độ, mặc dù chúng ta thống lĩnh thị trường nhưng lại không kiểm soát được thị trường. Hiện Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sản phẩm thô và xuất ngay từ xưởng thu mua trong nước.
“Chúng tôi không biết bằng cách này, cách khác mà các thương nhân Ấn Độ đã sang tận vùng Yên Bái, thuê người địa phương thu mua sản phẩm để kiểm soát được. Sang đến thị trường Ấn Độ, họ đã thống lĩnh toàn bộ thị trường. Mặc dù số lượng xuất khẩu lớn như vậy nhưng không có bất kì thương hiệu quế Việt Nam nào hiện diện trên thị trường Ấn Độ. Người ta chỉ biết nguồn gốc nguyên liệu từ Việt Nam, còn tất cả các sản phẩm đã được dán nhãn và chuyển sang thương hiệu Ấn Độ. Chúng ta xuất khẩu chiếm hơn 85% lượng quế Ấn Độ nhập khẩu, nhưng không tạo được áp lực ở thị trường này”, ông Thướng bày tỏ.
Sao chép và biến đổi
Vị tham tán cho biết, doanh nghiệp Ấn Độ có thế mạnh về công nghệ chế biến sâu, nhưng đó là bí quyết nên rất khó đàm phán chuyển giao cho doanh nghiệp Việt Nam. Nên doanh nghiệp muốn học hỏi bằng cách này hay cách khác phải sang tận nơi tìm hiểu. Ví dụ sản phẩm vỏ điều là dược liệu quý, trước đây Ấn Độ muốn nhập sản phẩm này, họ đã thành lập nhà máy thu mua và chế biến ngay tại Bình Phước.
Điều này ngược lại so với Việt Nam, nơi các doanh nghiệp rất “dễ tính” khi chuyển giao công nghệ. Ví dụ công nghệ chế biến điều Việt Nam rất phát triển nhưng hiện bán công nghệ quá dễ, thậm chí cử cả chuyên gia sang đào tạo cho Ấn Độ. Hoặc câu chuyện buồn hơn là hương nhang, trước 90% xuất khẩu sang Ấn Độ. Sau đó họ sang mua tất cả các loại máy móc ở vùng Hưng Yên, Thái Bình và không nhập sản phẩm Việt Nam nữa.
“Các nước bảo hộ sở hữu trí tuệ, bảo vệ công nghệ nhưng Việt Nam lại dễ thế. Đó là một cảnh báo để phát triển thị trường. Phát triển thị trường đã khó nhưng làm sao giữ được thị trường, giữ được bí quyết của chúng ta, vì sao lại dễ dàng chuyển giao những công nghệ mà chúng ta mất rất nhiều thời gian mới sáng chế ra được”, ông Thướng nhấn mạnh.
Theo tìm hiểu, sở dĩ Ấn Độ từ nước phụ thuộc trở thành cường quốc về dược phẩm cũng nhờ khả năng “bắt chước”. Đạo luật Sáng chế năm 1970 với sự nới lỏng và linh hoạt hơn so với luật cũ đã giúp số lượng công ty dược nước này tăng gấp 2 lần sau 10 năm. Hoạt động chính là thiết kế lại các loại thuốc hiện có, tức nghiên cứu các bước sản xuất thuốc và sửa đổi.
Thành phần giống nhau nhưng các bước khác nhau cũng tạo ra một bằng sáng chế mới. Nhờ ‘copy’ mà các công ty rèn luyện được năng lực để tiến tới sản xuất mọi loại hợp chất vào cuối những năm 1980.
Bài học về sự dấn thân
Vị Tham tán Việt Nam tại Ấn Độ cũng cho biết, thời gian vừa qua đã giúp doanh nghiệp Việt giải quyết rất nhiều vụ tranh chấp thương mại, nhưng đa phần các doanh nghiệp thua ngay tại sân nhà.
“Có những doanh nghiệp vừa thành lập, kí 3 container xuất khẩu quế, hồi, thảo quả sang Ấn Độ, tưởng được hưởng lợi lớn. Khi hàng cập cảng, phía bạn không chấp nhận thông quan, nói rằng hàng không đảm bảo chất lượng. Khi Thương vụ đưa lập luận rằng không kiểm tra thì không lý do để đánh giá chất lượng, thì họ bắt lô hàng phải giảm giá 50% mới thanh toán... Tất cả đều rất vô lý.
Khi chúng tôi làm việc phát hiện doanh nghiệp đã bán lô hàng cho một thương nhân khác khi chưa đến cảng, và thương nhân đó đã làm thủ tục nhập khẩu. Dẫn đến 3-4 bên tranh chấp, mất hơn 8 tháng để giải quyết, mặc dù đã phục hồi 60% giá trị lô hàng nhưng vẫn thiệt lại lớn”, ông Thướng ví dụ.
Vị này cho biết, để giữ “nồi cơm” của mình, doanh nghiệp phải mạnh dạn phát triển thị trường. Trong thời gian qua, các vị Tham tán thương mại ở các nước rất cố gắng, nỗ lực làm việc ngày đêm nhưng không đủ thời gian, nhân lực để hỗ trợ được tất cả nhu cầu doanh nghiệp. Do vậy, Thương vụ khuyến khích các doanh nghiệp “vi hành” thị trường, sang trực tiếp Ấn Độ để khảo sát.
Ấn Độ dân số đứng đầu thế giới, kinh tế đứng thứ 5 thế giới. Tuy vậy, thu nhập bình quân đầu người chỉ từ 2.000-2.500 USD, do dân số đông, nên dải yêu cầu sản phẩm rất lớn, cả thấp – cao – trung bình, doanh nghiệp cần xác định tham gia vào dải thị trường nào.
Ngoài ra, thương mại điện tử ở Ấn Độ hiện chưa phát triển, còn đi sau Việt Nam 10-15 năm, trong khi thương mại truyền thống vẫn chiếm tới 75%. Ấn Độ còn rất nhiều chợ thô sơ, họ còn sử dụng những cái cân mà Việt Nam từng sử dụng từ những năm 60. Đây cũng là lĩnh vực tiềm năng mà doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác.
“Gần đây có một số doanh nghiệp Việt Nam đã mạnh dạn sang Ấn Độ phát triển thị trường. Họ rất trẻ (thế hệ 9x), tự phát triển thương hiệu Việt Nam và tự xây dựng kênh phân phối tại Ấn Độ. Còn mất thời gian để đánh giá thành công của mô hình nhưng chúng tôi ghi nhận sự dũng cảm, đi đầu trong phát triển thị trường. Chúng tôi sẵn sàng đồng hành cùng doanh nghiệp, để cung cấp thông tin, hướng doanh nghiệp thị trường gia vị tiềm năng nằm ở đâu… nhưng không thể thay anh chị mọi việc”, ông Thướng cho biết.