Đại diện AmCham: Xu thế ‘hướng nội’ của doanh nghiệp Mỹ sẽ là thách thức với Việt Nam
(DNTO) - Theo bà Virginia Foote - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ Việt Nam (AmCham), doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam cần nỗ lực hơn trong việc cải cách thể chế, kế hoạch kinh doanh để thích ứng với xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp Mỹ nói chung và thế giới nói riêng.
Trao đổi trong Diễn đàn thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ sáng 7/12, khi chia sẻ cách thức thích ứng, phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ trong bối cảnh đại dịch, bà Virginia Foote - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ Việt Nam (AmCham) nhấn mạnh, xu hướng dịch chuyển phức tạp của chuỗi cung ứng toàn cầu trong đại dịch Covid 19 đã khiến nhiều công ty Mỹ, đặc biệt các công ty miền Nam nước Mỹ có tâm lý “hướng nội”, tức hướng trở lại với các ngành sản xuất và chuỗi tiêu dùng của Mỹ hơn. Đây là thách thức cho Việt Nam.
Theo bà Virginia Foote, mặc dù Việt Nam đang có sự cạnh tranh khá lớn trong khu vực nhưng cần tính toán đến việc tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, leo thang trong các chuỗi giá trị. Muốn làm được điều này, trước mắt, Việt Nam cần tạo thuận lợi hóa thương mại. Cụ thể, việc vận chuyển nguyên liệu thô qua biên giới, chính sách thuế, thủ tục hành chính, hải quan để giúp hàng hóa xuất cảng rất quan trọng và là chuỗi thống nhất, cần được ưu tiên. Tuy nhiên, ở Việt Nam quá trình này vẫn còn rườm rà.
“Ở Việt Nam hiện còn quá nhiều thủ tục hành chính, quá ít biện pháp kiểm soát rủi ro, như vậy ảnh hưởng khả năng vận tải hàng hóa toàn cầu, và Việt Nam nên có thêm sự hỗ trợ cho vấn đề này”, bà Virginia Foote nói.
Đối với các công ty Việt Nam khi muốn hợp tác với công ty Mỹ, bà Virginia khuyến nghị cần phải đảm bảo sổ sách “sạch”, tức chi trả thuế đầy đủ, có phương án kinh doanh hợp lý, đầy đủ: “Đây đều là những yếu tố các công ty Mỹ nghiên cứu rất kĩ khi hợp tác kinh doanh vì nếu công ty đối tác không hài lòng về vấn đề sổ sách liên quan thì rất khó để kí các thỏa thuận hợp tác hay các hợp đồng kinh doanh”.
Ngoài ra, đại diện AmCham cũng khuyến nghị Việt Nam nên đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế, luật pháp để đảm bảo luật pháp tương đồng với các nước đối tác, tạo thuận lợi cho các công ty hoạt động đa quốc gia. Bên cạnh đó là tập trung hỗ trợ lao động nâng cao kĩ năng, để tăng sức cạnh tranh, thu hút sự chú ý của thế giới.
Về phía Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải nhận định, ở góc độ vĩ mô, tính chất bổ trợ của hai nền kinh tế Việt Nam và Hoa Kỳ là đặc điểm quan trọng giúp Việt Nam định hình chính sách kinh tế, thương mại với Hoa Kỳ theo hướng hài hòa và bền vững, đảm bảo các nền tảng quan trọng và duy trì lợi ích quốc gia trong hợp tác song phương, từ đó đưa Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Hiện các nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng đầu tư vào hơn 20 lĩnh vực kinh tế, đứng thứ 11 trong số các nhà đầu tư hàng đầu vào Việt Nam. Hầu hết các Tập đoàn lớn nhất của Hoa Kỳ đều đã có mặt tại Việt Nam như Exxon Mobil, Murphy Oil, Chevron, Boeing, Ford, Intel, Wal-Mart, Nike, Amazon và P&G… Nhiều nhà đầu tư Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam sẽ trở thành địa điểm đầu tư lý tưởng, quan trọng và an toàn của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, theo ông Đỗ Thắng Hải, những diễn biến bất ổn của thương mại toàn cầu và nguy cơ đình trệ gây ra bởi đại dịch Covid-19 thời gian qua đã tạo sức ép, buộc các doanh nghiệp phải tính đến việc phát triển mô hình chuỗi cung ứng mới, trong đó có các hệ thống cung ứng dự phòng đặt tại nhiều địa điểm khác nhau để đảm bảo sự bền vững và tính liên tục.
Với những người làm chính sách, ông Hải cho rằng có 2 điểm quan trọng cần tập trung giải quyết trong thời gian tới để thúc đẩy thương mại Việt – Mỹ.
Thứ nhất là cần phát huy cơ chế đối thoại chính sách của Hội đồng Thương mại và Đầu tư Việt Nam – Hoa Kỳ (TIFA) để kiến tạo khung khổ pháp lý thuận lợi, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư và kịp thời giải quyết những khó khăn phát sinh trong lĩnh vực kinh tế, thương mại.
Thứ hai, trong trạng thái “bình thường mới” và trong “bối cảnh mới”, Việt Nam và Hoa Kỳ cần tăng cường kết nối, hạn chế các vụ việc phòng vệ thương mại và giải quyết các vấn đề kinh tế, thương mại còn tồn tại thông qua đàm phán nhằm bảo đảm tính liên tục trong hoạt động của các chuỗi cung ứng, cũng như tránh gây tác động tiêu cực đến các ngành sản xuất vốn đã chịu thiệt hại gây ra bởi đại dịch.
Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ đã tăng gấp 168 lần, từ 450 triệu USD vào năm 1995 khi 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao lên mức 1,5 tỷ USD năm 2001 khi hai nước ký Hiệp định Thương mại song phương và đạt 90,8 tỷ USD trong năm 2020, tăng 19,9% so với năm 2019.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, tính đến hết tháng 10/2021, tổng kim ngạch trao đổi thương mại song phương đạt 89,6 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ 76,7 tỷ USD (tăng 22,9% so với cùng kỳ 2020; chiếm tỷ trọng 28,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước); nhập khẩu từ Hoa Kỳ 12,9 tỷ USD (tăng 13,2% so với cùng kỳ 2020, chiếm tỷ trọng 4,8% tổng kim ngạch nhập khẩu).
Hoa Kỳ vẫn duy trì vị trí là đối tác thương mại lớn nhất và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hiện Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 9 của Hoa Kỳ, tăng 5 bậc so với năm 2020.