Đưa Việt Nam trở thành quốc gia hàng đầu về công nghiệp nuôi biển trên thế giới
(DNTO) - Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành vừa ký Quyết định 1664, phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với mục tiêu chung là phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Nuôi biển đã và đang phát triển tại nhiều địa phương trên cả nước như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Khánh Hòa, Phú Yên, Kiên Giang, Cà Mau. Tuy nhiên, lĩnh vực nuôi biển chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế vốn có. Thời gian qua, việc phát triển hạ tầng cơ sở phục vụ nuôi biển còn nhiều hạn chế, dàn trải, thiếu đồng bộ.
Việc quản lý và sử dụng các công trình, các dự án đầu tư còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, nhiều dự án sau khi xây dựng đưa vào hoạt động chưa đạt được theo công suất thiết kế. Nuôi biển còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch chi tiết, điều kiện hạ tầng cơ sở còn nhiều hạn chế, trình độ kỹ thuật sản xuất của người dân chưa đáp ứng được yêu cầu...
Chính vì vậy, trong Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đưa ra định hướng phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển; góp phần tham gia bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc.
Cụ thể, đề án đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 0,8-1 tỷ USD. Đến năm 2030, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8-2 tỷ USD.
Tầm nhìn đến năm 2045, ngành công nghiệp nuôi biển của nước ta đạt ở trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại. Công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận quan trọng trong ngành thủy sản, có đóng góp trên 25% tổng sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 4 tỷ USD.
Theo đó, để hiện thực hoá mục tiêu, cần rà soát, đánh giá về thực trạng và nhu cầu hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nuôi biển làm cơ sở đầu tư sản xuất. Đồng thời, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại phục vụ phát triển nuôi biển xa bờ, bao gồm các hạng mục hạ tầng thiết yếu vùng sản xuất giống phục vụ nuôi biển, vùng nuôi trồng thủy sản trên biển, công nghiệp hỗ trợ phục vụ nuôi biển, hệ thống quan trắc môi trường nuôi biển tự động...
Hình thành các đội tàu dịch vụ hậu cần phục vụ nuôi biển theo hướng đa chức năng, từ vận chuyển giống, thức ăn đến thu hoạch, sơ chế, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Ưu tiên phát triển nuôi, trồng các đối tượng có thị trường tiêu thụ và lợi thế cạnh tranh, các mô hình nuôi đa loài phù hợp với từng vùng sinh thái.
Đặc biệt, cần tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm nuôi biển, gắn với trung tâm nghề cá lớn; trọng tâm phát triển nuôi biển ở các tỉnh gắn với bảo tồn biển và du lịch quốc gia. Xây dụng các vùng sản xuất giống nhuyễn thể tập trung, đáp ứng nhu cầu giống nhuyễn thể cho khu vực và cả nước.
Đề án quy định rõ, với các tỉnh/thành phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, phát triển nuôi biển gắn với chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần và hạ tầng phát triển thủy sản. Phát triển sản xuất giống cá biển, rong, tảo biển, sinh vật cảnh tập trung; Xây dựng và vận hành mô hình đồng quản lý trong quản lý và khai thác có hiệu quả, bền vững giống tôm hùm.
Các tỉnh/thành phố từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Kiên Giang, tập trung xây dựng phát triển nuôi biển ở các địa phương có điều kiện; gắn kết hài hòa nuôi biển với dịch vụ, du lịch sinh thái biển, dầu khí, điện gió, giữa phát triển nuôi biển và phát triển công nghiệp chế biến.
Đối với phát triển công nghiệp nuôi biển xa bờ, sẽ phát triển mạnh nuôi các đối tượng có lợi thế cạnh trạnh và có thị trường tiêu thụ lớn trên vùng biển xa bờ; nhóm cá biển có giá trị kinh tế cao, nhóm nhuyễn thể và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế khác.
Nuôi công nghiệp, hiện đại, quy mô lớn, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; sử dụng hệ thống lồng, bè có kết cấu và vật liệu phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết như: sóng to, gió lớn, bão...
Hình thành các vùng nuôi biển xa bờ tại các tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi
Về vấn đề này, Bộ NN&PTNT cho hay, Bộ đang xây dựng chính sách tín dụng thương mại theo chuỗi giá trị có tính tới quy mô thị trường, chủ thể tham gia chuỗi, nhu cầu tài chính và các dịch vụ đi kèm đối với doanh nghiệp công nghiệp nuôi biển, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, người nuôi biển tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nuôi biển công nghiệp xa bờ, công nghiệp phụ trợ, chế biến sản phẩm công nghệ cao, tạo sản phẩm có giá trị gia tăng; hỗ trợ đầu tư các mô hình nuôi biển công nghiệp xa bờ, ưu đãi cho các mô hình chuyển đổi từ nuôi biển thủ công truyền thống sang mô hình nuôi biển công nghiệp.
"Bộ sẽ tập trung đầu tư từ nguồn ngân sách cho các dự án nghiên cứu thử nghiệm, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất giống, nuôi lồng bè công nghiệp ở các vùng biển xa, biển hở. Hỗ trợ một phần cho các doanh nghiệp để nhập công nghệ, chuyển giao công nghệ nuôi, sản xuất giống nhân tạo các đối tượng nuôi biển", Bộ NN&PTNT nhấn mạnh.