Tồn tại nhiều hạn chế trong khâu thương mại hóa sản phẩm OCOP
(DNTO) - Hiện nay, sau khi xây dựng thành công thương hiệu sản phẩm OCOP, nhiều địa phương gần như cũng chỉ dừng lại ở mức độ trưng bày, giới thiệu sản phẩm, chưa chú trọng thương mại hóa. Bên cạnh đó, chưa tập trung cho các sản phẩm mang tính chất đặc thù nên vẫn khó "nhớ mặt, đặt tên".
Phát biểu tại Diễn đàn "Kết nối tiêu thụ nông sản và sản phẩm OCOP các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long năm 2022", chiều 12/11, ông Đặng Quý Nhân, Phó Trưởng phòng OCOP, Văn phòng Điều phối Xây dựng Nông thôn mới Trung ương cho biết, cho biết, sau 4 năm triển khai, chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP) đã lan toả mạnh mẽ trên khắp cả nước và đạt được những kết quả tích cực. Điển hình như tại nhiều địa phương, những sản phẩm tiềm năng có sức bán tăng 40-50%. Giá trị giao dịch của các sản phẩm OCOP cũng ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều hạn chế về chuẩn hoá chất lượng cũng như phát triển thị trường tiêu thụ, số lượng sản phẩm OCOP tăng nhanh nhưng chưa bền vững, chưa tập trung vào các sản phẩm có lợi thế. Các địa phương thiếu sự chủ động, chưa tập trung chuẩn hóa chất lượng sản phẩm, năng lực thị trường, các giải pháp hỗ trợ, tổ chức, quản lý. Bên cạnh đó, các hoạt động xúc tiến thương mại còn manh mún, thiếu đồng bộ nên hiệu quả chưa cao.
Cụ thể, đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang cho biết, hiện nay việc phát triển sản phẩm OCOP của địa phương còn hạn chế, khiêm tốn so với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với 74 sản phẩm và 21 chủ thể là những cơ sở sản xuất nhỏ lẻ. Tuy còn nhiều dư địa để phát triển nhưng các chủ thể, các cơ sở sản xuất của địa phương đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các kênh phân phối.
Đặc biệt, hiện nay An Giang có nhiều sản phẩm nông nghiệp nổi bật, tuy nhiên các cơ sở sản xuất còn dè dặt, đắn đo, thậm chí từ chối tham gia chương trình OCOP do chưa có sự đảm bảo, chắc chắn trong khâu tiêu thụ sản phẩm.
Theo đó, đại diện Sở NN&PTNT An Giang đề xuất Văn phòng Điều phối Nông thôn mới Trung ương hỗ trợ các tỉnh ĐBSCL xây dựng trung tâm trưng bày các sản phẩm OCOP của ĐBSCL, sau đó điều phối những sản phẩm đó đến nơi có nhu cầu với các đối tác lớn. Từ đó các cơ sở và chủ thể sẽ có kế hoạch sản xuất cụ thể theo nhu cầu của doanh nghiệp, tránh tình trạng mất cân đối cơ cấu sản phẩm so với nhu cầu thực tiễn.
Cùng quan điểm, ông Lê Viết Bình, Phó Chánh Văn phòng Bộ NN&PTNT cho rằng, đang tồn tại nhiều hạn chế trong khâu thương mại hóa sản phẩm OCOP. Chẳng hạn, sau khi xây dựng thành công thương hiệu sản phẩm OCOP, nhiều địa phương gần như chỉ dừng lại ở mức độ trưng bày, giới thiệu sản phẩm mà chưa có kênh thương mại để thúc đẩy tiêu thụ.
"Số lượng các sản phẩm OCOP tăng nhanh một cách ồ ạt, các địa phương chưa tập trung cho các sản phẩm lợi thế, mang tính chất đặc thù nên chất lượng cũng như hiệu quả của chương trình OCOP chưa cao. Đặc biệt, việc phát triển sản phẩm OCOP còn rời rạc, không có sự liên kết giữa các sản phẩm trong cùng một địa phương và các địa phương trong cùng một vùng", ông Lê Viết Bình phân tích.
Theo đó, ông Bình cho rằng, cần có nhiều hình thức để giới thiệu sản phẩm OCOP của địa phương. Đơn cử như sản phẩm OCOP sẽ kết hợp với du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng.
Ông Tùng mong thời gian sắp tới, các chủ thể cần sáng tạo hơn về sản phẩm; các địa phương cần hỗ trợ tích cực hơn, có kế hoạch đồng bộ, chi tiết, nghe ngóng các sản phẩm tương đồng để xây dựng chiến lược riêng, tránh trùng lặp. Hiện nay các chủ thể vẫn ít lựa chọn sản phẩm đặc thù mang tính chất bản địa.
Bên cạnh đó, số lượng sản phẩm OCOP nhiều thì tính riêng biệt cần xem xét, đánh giá. Song song với đó là bài toán kết nối nông sản hiện cực kỳ khó khăn, cần kêu gọi các doanh nghiệp, hệ thống bán lẻ cùng vào cuộc, xúc tiến thương mại, từ đó, tạo thu nhập cho người dân.
“Đối với sản phẩm OCOP kết hợp dịch vụ du lịch thì cần phù hợp với thị hiếu khách hàng. Ví dụ, du khách du lịch dài ngày không thể mua các sản phẩm nặng nề, cần hướng đến sản phẩm nhẹ nhàng hơn”, ông Tùng chia sẻ.
Trong khi đó, ông Vũ Văn Tiến Phó Cục trưởng Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển Nông thôn cho biết, các hợp tác xã vẫn chưa phát huy hết tiềm năng trong đóng góp phát triển sản phẩm OCOP. Việt Nam hiện có hơn 19.000 hợp tác xã nông nghiệp, chiếm gần 70% số hợp tác xã của cả nước, với hơn 3,4triệu xã viên.
Tuy nhiên, trong hơn 8.500 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên chỉ có 40% sản phẩm có chủ thể là hợp tác xã và tổ hợp tác tham gia chương trình OCOP. Có thể thấy, đóng góp của hợp tác xã và tổ hợp tác trong việc phát triển và gia tăng giá trị của sản phẩm OCOP vẫn chưa phát huy hết tiềm năng vốn có.
"Để phát triển hợp tác xã gắn với sản phẩm OCOP, chính quyền địa phương cần phát huy vai trò, trách nhiệm trong việc nâng cao nhận thức, khuyến khích chủ thể sản phẩm OCOP phát triển, bảo hộ sở hữu trí tuệ, hỗ trợ hợp tác xã về nguồn vốn, hạ tầng, quảng bá và xúc tiến tiêu thụ", ông Tiến nhận định.
Nêu quan điểm, TS Ngô Thị Thu Trang, Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển nông thôn, Trường ĐH Xã hội Nhân văn TP.HCM, cho rằng chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” làm sao khi nói đến xã đó là nhớ đến sản phẩm đó. Việc mang lại từ giá trị của sản phẩm OCOP là việc chuẩn hóa sản phẩm của bà con qua tham gia chương trình OCOP.
Với nhóm sản phẩm đặc trưng của mỗi địa phương thì tỉnh cần có bước đi, định hướng lâu dài hơn trong củng cố nguồn nguyên liệu, trong xây dựng thương hiệu, trong việc đẩy mạnh các hoạt động để sản phẩm đó trở thành sản phẩm đặc thù của địa phương.
Do đó, chương trình OCOP giai đoạn 2021-2025 phải chú ý đến vùng nguyên liệu như thế nào? Liên kết vùng nguyên liệu ra sao? Để những giá trị bản địa, sản phẩm bản địa trở nên nổi bật mang đặc trưng vùng miền và mang lại giá trị.