Ngại ‘lên sàn’ - rào cản của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong huy động vốn

(DNTO) - Theo khảo sát của VCCI, hiện rất nhiều doanh nghiệp chưa muốn niêm yết trên sàn chứng khoán vì ngại công khai, minh bạch. Đây là rào cản gây khó khăn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong huy động vốn.

Thời gian vừa qua, Việt Nam có rất nhiều cơ chế chính sách để hỗ trợ DNNVV nhưng chưa hỗ trợ được nhiều. Ảnh minh họa
Tại Hội thảo “Hỗ trợ tài chính trên nền tảng công nghệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam” do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng ngân hàng BIDV đánh giá, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm tỷ lệ khoảng 97,5% trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đóng góp khoảng 40-41% GDP, khoảng 30% xuất khẩu và khoảng 77% việc làm trên thị trường lao động. Nếu so với khu vực Đông Nam Á hay châu Á, thì về cơ bản cũng tương đương về mức độ đóng góp này.
56% các doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu vốn
Qua khảo sát của ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), đối với các thị trường mới nổi và đang phát triển, trong đó có Việt Nam, khoảng 56% các DNNVV thiếu vốn, số liệu này cũng khớp với báo cáo của VCCI.
Nhìn từ quốc tế, các nguồn vốn phổ biến cho DNNVV trên thế giới tiếp cận gồm 5 hình thức cơ bản: Tín dụng; Tài trợ trên cơ sở tài sản đảm bảo khác (các khoản phải thu, cho thuê tài chính, bảo lãnh tín dụng); Nguồn vốn thay thế trực tuyến; Vốn tự có; và Huy động từ thị trường chứng khoán.
Theo TS Lực, tại Việt Nam, hiện nay có 6 kênh dẫn vốn chính cho các doanh nghiệp đó là vốn từ ngân sách Nhà nước gồm vốn mồi; ưu đãi miễn, giảm thuế; chương trình phục hồi; quỹ phát triển doanh nghiệp địa phương; đầu tư công.
Tiếp đó là nguồn vốn từ đối tác cho doanh nghiệp trả chậm và tín dụng thương mại; đến vốn vay nước ngoài, IPO trên thị trường quốc tế, nhưng hoạt động này ở Việt Nam hiện rất ít. Cùng với đó có nguồn vốn tín dụng bảo lãnh, cho thuê tài chính; huy động vốn từ thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu, các nền tảng công nghệ và cuối cùng là vốn tự có, vốn góp.
TS Cấn Văn Lực cho biết, thời gian vừa qua, Việt Nam có rất nhiều cơ chế chính sách để hỗ trợ DNNVV nhưng chưa hỗ trợ được nhiều, vì vậy đã đến lúc phải tra soát lại, đánh giá những gì cần phải thúc đẩy, sửa đổi để làm tốt hơn. Sau khi có các quy định pháp luật cụ thể, Chính phủ cũng đã ban hành một loạt các Nghị định chi tiết hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện, như Nghị quyết 01 của Chính phủ lồng ghép rất nhiều những yếu tố quan trọng liên quan đến cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp; Nghị quyết 35 của Chính phủ về phát triển doanh nghiệp, mong muốn có 1 triệu doanh nghiệp đến năm 2020; ngoài ra, còn có một loạt cơ chế chính sách khác như Nghị định 12 về hoàn thuế và chính sách giảm thuế VAT đã ban hành...
Thách thức trong tiếp cận vốn
Về hoạt động tiếp cận vốn của doanh nghiệp, theo thống kê từ năm 2022, vốn tín dụng chiếm khoảng 47-48%; vốn tự có, vốn chủ sở hữu thì đâu đó chỉ 10% là tiền thực được góp vào để sản xuất kinh doanh, còn lại là thiếu...

Về quy mô, dư nợ từ kênh tín dụng ngân hàng với DNNVV tại Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 20%, con số này cao hơn trung bình so với khu vực châu Á (khoảng 17%). Lĩnh vực cho thuê tài chính ở Việt Nam có 10 công ty nhưng vẫn chưa phát triển được và tổng dư nợ cho thuê tài chính mới khoảng 40.000 tỷ đồng, chỉ bằng một công ty tài chính tiêu dùng.
TS Cấn Văn Lực chỉ ra những thách thức trong tiếp cận vốn của khu vực DNNVV. Thứ nhất, rủi ro bị coi là cao hơn so với doanh nghiệp cỡ lớn hoặc các doanh nghiệp khác, bởi vì thông tin, số liệu báo cáo tài chính còn thiếu công khai, minh bạch, nhiều sổ sách...
Thứ hai, luôn luôn thiếu tài sản đảm bảo, trong bối cảnh thông tin thiếu minh bạch mà hiện tượng hình sự hóa quan hệ kinh tế lại phổ biến ở Việt Nam, nên nếu thất thoát xảy ra, không có tài sản đảm bảo thì cả doanh nghiệp và ngân hàng đều phải chịu trách nhiệm, chưa kể khâu quản trị doanh nghiệp còn phải tiếp tục tăng cường hơn nữa.
Thứ ba, mức độ định hạng tín nhiệm doanh nghiệp chưa có. Việt Nam vẫn chưa có tổ chức xếp hạng tín nhiệm các DNNVV; Thứ tư, yêu cầu nhiều về vốn tối thiểu và dự phòng rủi ro (nghĩa là khi tổ chức tín dụng cho vay với DNNVV thì rủi ro cao hơn, buộc tổ chức tín dụng phải trích lập dự phòng nhiều hơn dẫn đến họ đòi hỏi lãi suất cao hơn); Thứ năm, chúng ta chưa có nhiều nguồn vốn thay thế như các nguồn vốn trực tuyến.
"Đây là những nguyên nhân, rào cản gây khó khăn đối với DNNVV trong huy động vốn. Đáng chú ý là hiện nay rất nhiều doanh nghiệp chưa muốn niêm yết trên sàn chứng khoán, bởi vì doanh nghiệp ngại công khai, minh bạch; đồng thời phải tăng chi phí về việc tuân thủ các quy định về niêm yết. Nhưng có điều doanh nghiệp nên cân nhắc, là khi được lên sàn thì sẽ có tác dụng rất lớn, có thêm kênh huy động vốn lớn", ông Lực nói.
Từ những thách thức trên, TS. Cấn Văn Lực đã đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các DNNVV. Theo đó, giải pháp đầu tiên là Chính phủ cần đẩy mạnh thực hiện chương trình phục hồi năm 2022-2023, thực hiện tốt các chính sách giải pháp tiền tệ và tài khóa đã ban hành, giải ngân đầu tư công và đặc biệt cải thiện môi trường kinh doanh, thực thi công vụ.
Bên cạnh đó, hoàn thiện hành lang pháp lý, cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện cả bao thanh toán, chiết khấu “miễn truy đòi” như thông lệ (khi sửa Luật các TCTD), có cơ chế thử nghiệm cho Fintech, cho vay ngang hàng (P2P), sửa Nghị định 65 về trái phiếu doanh nghiệp; phát triển thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; quỹ đầu tư; xem xét thành lập sàn giao dịch vốn riêng cho các DNNVV như tại Ấn Độ, Nam Phi... và sớm thành lập thị trường mua - bán nợ.
"Phát triển hệ thống cho các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các nguồn vốn trực tuyến như Fintech, gọi vốn cộng đồng, cho thuê tài chính, cho vay tiêu dùng; nâng cao hiệu quả quỹ phát triển DNNVV, củng cố và phát triển hệ thống bảo lãnh tín dụng cho DNNVV...", TS Lực nêu giải pháp.
Về phía DNNVV, TS Cấn Văn Lực cho rằng cần tìm hiểu tiếp cận các chương trình chính sách hỗ trợ, tăng năng lực cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, tài trợ chuỗi cung ứng; tăng tính minh bạch và chuyên nghiệp; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về tài chínhm kế toán; nâng cao trình độ quản trị, minh bạch thông tin tài chính; đa dạng hóa nguồn vốn chủ động; tìm hiểu về tài chính tín dụng, nhất là các sản phẩm như cho thuê tài chính, tài trợ cho cung ứng huy động vốn trên nền tảng công nghệ hợp pháp và phấn đấu niêm yết phát hành chứng khoán.