Một thị trường 7.000 tỷ USD nhưng mới mở cửa cho khoảng 20 sản phẩm Việt Nam
(DNTO) - 2,2 tỷ người Hồi giáo trên toàn cầu là thị trường rộng lớn với nhu cầu chi tiêu cho thực phẩm lên tới hàng nghìn tỷ USD mỗi năm. Nhưng đây cũng là thị trường đầy thách thức với những tiêu chuẩn khắt khe.
Cơ hội tỷ đô
Tại Hội thảo “Xúc tiến xuất khẩu sản phẩm Halal của Doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Malaysia và các nước Hồi giáo” sáng 31/5, ông Firdauz Othman, Tổng lãnh sự Lãnh sự quán Malaysia tại TP. HCM cho biết, ngành công nghiệp Halal (phục vụ cho người Hồi giáo) đang phát triển mạnh mẽ với với khoảng 2,2 tỷ người theo đạo Hồi trên toàn thế giới và dự kiến tăng lên 3 tỷ người vào năm 2060.
Thị trường này có trị giá 7.000 tỷ USD, ước tính đạt 10.000 tỷ USD vào năm 2028. Đây là thị trường khổng lồ, l không chỉ giới hạn ở các sản phẩm thực phẩm và đồ uống, mà mở rộng ra rất nhiều lĩnh vực như: tài chính, thời trang, mỹ phẩm, dược phẩm, du lịch và giải trí.
Chỉ tính riêng về mảng thực phẩm, Halal cũng là thị trường màu mỡ với tốc độ phát triển rất nhanh. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), chi tiêu cho thị trường thực phẩm Halal dự kiến đạt 1.900 tỷ USD vào năm 2024 và 15.000 tỷ USD vào năm 2050.
Ở khu vực Đông Nam Á, tiêu thụ thực phẩm Halal dự kiến đạt 1,972 tỷ USD trong năm nay với các sản phẩm như bánh kẹo, thực phẩm, đồ uống, sản phẩm từ sữa, sản phẩm hữu cơ. Ngoài ra còn có sản phẩm thảo dược mỹ phẩm, nước hoa, kéo theo đó là các dịch vụ đi kèm như logistics và chuỗi cung ứng, du lịch, ngân hàng. Vì vậy, việc mở rộng xuất khẩu sang thị trường Halal mang đến cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam.
Lấy ví dụ thị trường Halal lân cận là Malaysia, ông Đào Minh Chánh, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. HCM (ITPC) cho biết, từ năm 2011 đến 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Malaysia đã tăng 1,7 lần, từ 7,2 tỷ USD lên 12,67 tỷ USD. Hai nước đang nỗ lực nâng con số này lên 25 tỷ USD vào năm 2030. Trong 4 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 4,9 tỷ USD.
Khai thác thành công thị trường Malaysia là bàn đạp giúp Việt Nam mở rộng xuất khẩu sang các nước Trung Đông đầy tiềm năng cũng như thâm nhập thị trường Halal toàn cầu, đặc biệt khi tiêu chuẩn Halal được chấp nhận trên phạm vi toàn thế giới. Các xu hướng Halal năm nay sẽ góp phần định hình lại môi trường kinh doanh Halal toàn cầu. Điều này sẽ tạo ra cơ hội mới nhưng cũng đòi hỏi các doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng.
“Năm nay, ngành công nghiệp Halal được dự báo sẽ tiếp tục phát triển mạnh tại các thị trường châu Á, Trung Đông và châu Phi.
Thị trường này đang chuyển dịch từ tư duy chỉ quan tâm tới sản phẩm sang xây dựng toàn bộ chuỗi cung ứng. Vì thế, các tiêu chuẩn Halal được mở rộng kiểm soát từ nguồn đến các nhà bán lẻ, nhà hàng, mua sắm trực tuyến”, ông Chánh nói.
Một thị trường không hề dễ tính
Tuy là một thị trường rộng lớn và màu mỡ, nhưng TS. Phú Văn Hẳn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Đông Nam Bộ, cho biết thị trường Halal luôn được coi là thị trường khó tính vì các sản phẩm luôn gắn liền với những quy định đặc thù và nghiêm ngặt của đạo Hồi. Đó là lý do doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn khi tiếp cận thị trường này do còn thiếu hiểu biết về văn hóa tôn giáo và văn hóa tiêu dùng.
Trong hội thảo cuối năm ngoái, đại diện Tổng Lãnh sự quán Malaysia tại TP.HCM cũng cho biết, Việt Nam hiện chỉ có khoảng hơn 20 mặt hàng xuất khẩu sang các thị trường Halal, chủ yếu là nông, thủy sản ở dạng thô, sơ chế, chiếm tỷ trọng nhỏ. Trung bình quân mỗi năm, Việt Nam chỉ có 50 doanh nghiệp được cấp chứng nhận Halal với các sản phẩm chủ yếu là hải sản, đồ uống, bánh kẹo, đồ ăn chay. Việt Nam chưa có tên trong danh sách 20 - 30 nước cung cấp thực phẩm Halal tiêu biểu của toàn cầu.
Lý giải về việc doanh nghiệp Việt khó khăn khi tiếp cận thị trường Hồi giáo, TS. Phú Văn Hẳn, cho biết để xuất khẩu sang thị trường này, doanh nghiệp buộc phải có chứng nhận Halal. Tuy nhiên, việc chứng thực này trên toàn cầu vẫn đang có nhiều vướng mắc.
Cụ thể, chưa có bộ tiêu chuẩn Halal thống nhất áp dụng cho tất cả các nước trên toàn cầu. Ngoài ra, tuy có nhiều tổ chức được phép cấp chứng nhận Halal nhưng quy trình thủ tục cấp chứng nhận lại không thống nhất, khác nhau giữa các quốc gia, khu vực. Điều này làm gia tăng sự phức tạp cho các nhà sản xuất, kinh doanh.
“Các doanh nghiệp Việt Nam luôn cảm thấy khó khăn để đạt chứng nhận Halal vì tiêu chuẩn, quy định thẩm tra, cấp chứng nhận nghiêm ngặt nhưng lại không có giá trị vĩnh viễn, không được công nhận như nhau ở tất cả các quốc gia, với tất cả các mặt hàng”, ông Hẳn cho biết.
Để xuất khẩu thành công, vị chuyên gia khuyến nghị doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ về các tổ chức cấp chứng nhận Halal của từng khu vực, thị trường. Tiêu chuẩn bao gồm các yêu cầu khắt khe về nguyên liệu (được phép sử dụng và không được phép sử dụng theo đạo Hồi), quy trình sản xuất (đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm), hệ thống quản lý (lưu kho, vận chuyển, phân phối) và các khía cạnh khác liên quan đến quản trị của doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp có thể xây dựng và triển khai hệ thống sản xuất, quản lý chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn Halal của thị trường đó.
Với doanh nghiệp đã có chứng nhận Halal, ông Hẳn cho biết, vì chứng nhận này không có giá trị vĩnh viễn nên doanh nghiệp luôn phải đảm bảo tất cả các sản phẩm và hoạt động kinh doanh phải tuân thủ đúng các yêu cầu. Chỉ cần 1 lần vi phạm quy định, doanh nghiệp có thể bị thu hồi giấy chứng nhận và ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín. Các tiêu chuẩn của thị trường Halal cũng thường xuyên thay đổi, doanh nghiệp cần cập nhật liên tục để đảm bảo việc tuân thủ.