Xuất khẩu nông lâm thủy sản 7 tháng năm 2022 đạt gần 32,3 tỷ USD
(DNTO) - 7 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam ước tính gần 32,3 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái, thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Tính riêng tháng 7/2022, kim ngạch xuất khẩu ước khoảng 4,8 tỷ USD, tăng 10,4% so với tháng 7/2021, giảm 2,0% so với tháng 6/2022; giá trị xuất khẩu nhóm nông sản chính gần 2,0 tỷ USD, lâm sản chính trên 1,4 tỷ USD, thủy sản đạt 965 triệu USD, chăn nuôi đạt 42,1 triệu USD…
Tính chung 7 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước gần 32,3 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt 13,3 tỷ USD, tăng 8,4%; lâm sản chính đạt trên 10,4 tỷ USD, tăng 1,3%; thủy sản đạt khoảng 6,7 tỷ USD, tăng 34,2%; chăn nuôi ước đạt 225,6 triệu USD, giảm 11,6%; xuất khẩu đầu vào sản xuất gần 1,7 tỷ USD, tăng 66,7%.
Trong 7 tháng có 4 sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 2 tỷ USD gồm cà phê, gạo, tôm, sản phẩm gỗ.
Nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao hơn so với cùng kỳ. Phải kể tới, giá trị xuất khẩu cà phê đạt trên 2,6 tỷ USD (tăng 46,2%); cao su đạt trên 1,6 tỷ USD (tăng 7,0%); gạo trên 2 tỷ USD (tăng 9,0%); hồ tiêu khoảng 661 triệu USD (tăng 11,7%); sắn và sản phẩm sắn đạt 904 triệu USD (tăng 32,1%), cá tra đạt khoảng 1,6 tỷ USD (tăng 83,6%), tôm đạt trên 2,7 tỷ USD (tăng 26,2%), gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 9,7 tỷ USD (tăng 1,2%); mây, tre, cói thảm đạt 538 triệu USD (tăng 3,1%), phân bón các loại đạt 848 triệu USD (gấp 3,2 lần).
Tuy nhiên, cũng có những mặt hàng giảm giá trị xuất khẩu. Gồm nhóm hàng rau quả đạt trên 1,9 tỷ USD (giảm 16,1%), hạt điều ước đạt gần 1,8 tỷ USD (giảm 10,4%), sản phẩm chăn nuôi đạt 225,6 triệu USD (giảm 11,6%); giá trị xuất khẩu của sản phẩm gỗ giảm 6,9% với giá trị trên 6,9 tỷ USD dù giá trị xuất khẩu nhóm gỗ và sản phẩm gỗ tăng 1,2%.
Về thị trường xuất khẩu, ước giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á (chiếm 42,4% thị phần), châu Mỹ (29,3%), châu Âu (11,9%), châu Đại dương (1,7%) và châu Phi (1,6%).
Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, đạt gần 8,7 tỷ USD (chiếm 26,8% thị phần); tiếp theo là thị trường Trung Quốc trên 5,7 tỷ USD (chiếm 17,8% thị phần); thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt trên 2,3 tỷ USD (chiếm 7,2%) và Hàn Quốc là thị trường xuất khẩu thứ 4 với giá trị xuất khẩu đạt trên 1,5 tỷ USD (chiếm 4,7%).