Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Hoàn thiện hàng rào pháp lý để chặn sở hữu chéo, thao túng ngân hàng
(DNTO) - Dù Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã bổ sung những quy định cụ thể, song khống chế tỉ lệ sở hữu tại ngân hàng vẫn không "chặn" được các vụ việc tương tự như SCB. Cần khung pháp lý cụ thể trong lĩnh vực tài chính, làm rõ cơ cấu chủ sở hữu thực, xử lý nghiêm minh với trường hợp cố ý làm trái.
17 ngân hàng có cổ đông tổ chức vượt giới hạn
Tại phiên thảo luận về dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), quy định giảm tỷ lệ sở hữu của cá nhân, tổ chức tại các nhà băng nhằm giảm sở hữu chéo, chi phối và thao túng ngân hàng làm "nóng" nghị trường Quốc hội.
Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) lần này giữ nguyên tỷ lệ sở hữu với cá nhân là 5% như quy định hiện hành thay vì giảm về mức 3% như dự thảo trước đó. Quy định này được đánh giá là hợp lý. Tuy vậy, tỷ lệ sở hữu với tổ chức vẫn giảm từ 15% như quy định hiện hành xuống 10%; cổ đông và người có liên quan giảm từ 20% xuống 15%.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến ngày 31/12/2022, nếu điều chỉnh giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cổ đông là tổ chức từ 15% xuống 10% vốn điều lệ tại dự thảo Luật sẽ có tổng số 17 cổ đông là tổ chức tại 13 ngân hàng TMCP, 1 công ty tài chính có mức sở hữu cổ phần vượt 10%.
Để tránh xáo trộn, tác động tiêu cực tới hệ thống ngân hàng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại báo cáo giải trình, tiếp thu cho biết dự thảo Luật lần này đưa ra điều khoản chuyển tiếp. Cụ thể, từ 1/1/2025 (thời điểm Luật có hiệu lực), cổ đông vượt tỷ lệ sở hữu cổ phần được duy trì nhưng không tăng thêm, trừ trường hợp họ nhận cổ tức bằng cổ phiếu.
Theo các chuyên gia, siết tỷ lệ sở hữu không phải là biện pháp trọng yếu để ngăn sở hữu chéo. Thực tế, nếu cổ đông và nhóm cổ đông sở hữu không quá 15- 20% vốn ngân hàng như quy định hiện nay, không ai có thể chi phối được quyền cấp tín dụng của ngân hàng. Song, tại một vài ngân hàng, nhóm cổ đông vẫn sở hữu quá 50% vốn ngân hàng, làm "khuynh đảo" ngân hàng.
Gấp rút bổ sung khung pháp lý đủ ngăn tái diễn vụ việc tương tự SCB
Tại Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) lần này, tỷ lệ sở hữu cổ phần với cổ đông cá nhân được đề nghị giữ như hiện hành, tức 5%. Giới hạn cho cổ đông là tổ chức (gồm cổ phần cổ đông đó sở hữu gián tiếp) giảm từ 15% xuống 10%, cổ đông và người có liên quan giảm từ 20% xuống 15%.
Nêu góc nhìn, đại biểu Đoàn Thị Lê An (ĐBQH tỉnh Cao Bằng) cho rằng, việc khống chế tỷ lệ sở hữu cổ phần có thể ảnh hưởng tới các ngân hàng. Do đó, đại biểu kiến nghị cần xem xét các thủ tục, làm rõ cơ cấu sở hữu cổ phần, đặc biệt là những trường hợp cố ý làm trái quy định.
Cụ thể là tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông là tổ chức và người có liên quan của cổ đông đó không vượt quá 15% và 20% giảm xuống còn 10% và 15%. Mục đích của việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần này nhằm hướng tới việc loại bỏ tình trạng sở hữu chéo, loại bỏ tình trạng sử dụng tỷ lệ sở hữu cổ phần để thao túng, chi phối hoạt động của các tổ chức tín dụng từ một số cổ đông, nhóm cổ đông lớn.
Bà An nhận định, nếu chỉ riêng giải pháp điều chỉnh tỷ lệ sở hữu này sẽ không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo, điều này chỉ kiểm soát được về mặt hồ sơ.
"Việc khống chế tỷ lệ không quan trọng bằng việc giám sát thực thi quy định, chưa nói đến việc có thể tạo ra rào cản ngăn cản dòng vốn ngoại chảy vào hệ thống ngân hàng khi những người chủ ngân hàng nắm giữ 15 - 20% vốn ngân hàng không thể lũng đoạn các hoạt động cho vay của chính tổ chức đó", đại biểu nêu ý kiến.
Thực tế, những trường hợp sai phạm vừa qua cho thấy tỷ lệ sở hữu thực sự của những chủ thể này cao hơn rất nhiều so với quy định thông qua các công ty con, công ty liên kết hoặc các cá nhân đứng tên. Việc sửa đổi pháp luật để phù hợp thực tiễn rất cần thiết. Tuy nhiên, việc khống chế tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng không đủ ngăn tái diễn vụ việc tương tự như tại ngân hàng SCB bởi sở hữu chéo hay thao túng ngân hàng bản chất rất phức tạp.
"Nếu nhìn trên giấy tờ, nhiều cổ đông sở hữu tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ cho phép nhưng vẫn nắm quyền chi phối. Do đó, bên cạnh việc siết tỷ lệ sở hữu với hiệu quả còn khá mơ hồ thì cần xem xét quy định thật chặt chẽ về điều kiện, thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan", bà An nêu giải pháp.
Đồng thời đề xuất cổ đông có hệ thống giám sát chéo, thiết lập một khung pháp lý cụ thể trong lĩnh vực tài chính để làm rõ cơ cấu sở hữu, chủ sở hữu thực và trách nhiệm giải trình, xử lý nghiêm minh với những trường hợp cố ý làm trái.
Đồng quan điểm, đại biểu Võ Mạnh Sơn (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa) nhận định giảm sở hữu cổ phần chưa phải là giải pháp phù hợp ở thời điểm hiện tại để tăng sự an toàn cho hệ thống ngân hàng. Ông Sơn dẫn chứng, tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa như hiện nay của Việt Nam đã tương đối thấp so với nhiều nước trên thế giới. Mặc dù vậy, tình trạng cấp tín dụng tập trung cho một số nhóm khách hàng có liên quan vẫn thường xuyên diễn ra, gây rủi ro cho hệ thống.
Như vậy, quy định sở hữu cổ phần tối đa đã không thực sự phát huy tác dụng. Một số cổ đông dù không rơi vào trường hợp như quy định trong luật nhưng vẫn liên kết chặt chẽ với nhau, đồng thuận cấp tín dụng rất tập trung.
Mặt khác, đại biểu Sơn còn lo ngại sự ảnh hưởng đến hoạt động quản trị ngân hàng, vì nếu sở hữu tỷ lệ vốn quá thấp, các cổ đông sẽ không thực sự gắn bó với hoạt động kinh doanh của ngân hàng nữa.
"Các cổ đông lớn không chỉ đầu tư tiền bạc, họ còn mang công nghệ, quản trị để hỗ trợ hoạt động ngân hàng hiệu quả hơn", ông Sơn nói và đề xuất nên giữ nguyên tỷ lệ sở hữu như hiện nay. Nhưng đồng thời, đề nghị bổ sung quy định chặt chẽ hơn điều kiện cấp tín dụng cho ngân hàng liên quan tới cổ đông sở hữu cổ phần.
Giải trình lại ý kiến các đại biểu, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội "chốt" quan điểm cần giảm tỷ lệ sở hữu cổ đông là tổ chức tại ngân hàng. "Việc này sẽ giúp đa dạng cơ cấu cổ đông, tăng tính đại chúng và hạn chế chi phối, thâu tóm ngân hàng". Cùng với đó, cơ quan thường trực Quốc hội cho rằng tỷ lệ sở hữu của tổ chức giảm từ 15% xuống 10% cũng phù hợp với định hướng đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu 2021-2025.