Cần chú trọng bảo mật khi triển khai thí điểm Mobile Money
(DNTO) - Việc triển khai thí điểm dịch vụ Mobile Money là cơ sở quan trọng để thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và cung cấp dịch vụ tài chính đến người dân chưa có tài khoản ngân hàng. Nhưng việc triển khai dịch vụ này cần thận trọng và lường trước các rủi ro có thể phát sinh khi triển khai trong thực tế.
Lường trước để tránh rủi ro
Ths. Lưu Minh Sang, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM cho hay, trên thế giới, sự bùng nổ của dịch vụ dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ Mobile Money trong những năm gần đây đã tạo ra cơ hội mới cho người dân được tiếp cận với nền công nghệ số, mang đến nhiều lợi ích thiết thực, giúp cho quá trình thanh toán trở nên nhanh chóng và thuận tiện hơn. Tuy nhiên, dịch vụ này cũng gặp không ít nguy cơ, đó là nguy cơ rửa tiền thông qua Mobile Money.
Theo Ths. Lưu Minh Sang, hành vi rửa tiền là một trong những hành vi vô cùng tinh vi và khó bị phát hiện. Theo đó, Mobile Money dễ dàng bị lạm dụng để thực hiện hành vi rửa tiền bởi những đặc tính của dịch vụ này như ẩn danh, khó kiểm soát và nhanh.
“Tính ẩn danh thể hiện ở cách sử dụng dịch vụ Mobile Money. Người dùng chỉ cần thông qua một chiếc điện thoại, chỉ phải xác minh danh tính khi đăng ký sử dụng thuê bao di động chứ không thực hiện thủ tục xác minh danh tính khi chuyển tiền hay thanh toán giao dịch”, ông Sang nói.
Vì vậy, khi tội phạm rửa tiền có được điện thoại và thông tin thì họ có thể thực hiện hành vi phạm tội của mình một cách dễ dàng. Đồng thời, các giao dịch thông qua dịch vụ Mobile Money thường là số tiền nhỏ và là những giao dịch hằng ngày (giao dịch nhiều lần). Tội phạm rửa tiền có thể tách số tiền số tiền lớn ra rồi chuyển khoản thành nhiều lần nhằm che đậy nguồn gốc thực sự của số tiền. Cơ quan chức năng khó có thể phát hiện ra được hành vi phạm tội nếu không có một cơ chế quản lý chặt chẽ.
Ngoài ra, sự tiện lợi trong việc chuyển tiền nhanh chóng thông qua Mobile Money, người dùng có thể thực hiện giao dịch ở bất kỳ nơi đâu và bất kỳ thời gian nào, tạo cơ hội cho tội phạm thực hiện giao dịch bất hợp pháp.
Một người có thể ngồi một vị trí cùng với rất nhiều chiếc điện thoại có thể chuyển tiền qua lại giữa những chiếc điện thoại đó, tạo đường đi phức tạp cho dòng tiền, khiến cơ quan quản lý không phát hiện ra được hành vi phạm tội của chúng.
“Từ những rủi ro nêu trên, có thể thấy loại hình Mobile Money cần phải có một cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ trước nguy cơ rửa tiền của tội phạm thông qua những đặc điểm, tính chất của loại dịch vụ này”. Ths. Sang cho hay.
Cần chú trọng bảo mật khi triển khai Mobile Money
Cũng theo Ths. Sang, dựa trên thực tiễn tại Việt Nam thì thấy cần thiết phải xây dựng cơ chế phòng, chống rửa tiền khi triển khai dịch vụ Mobile Money.
“Nguy cơ rửa tiền thông qua Mobile Money tại Việt Nam rất cao. Thứ nhất, tại Việt Nam đã có những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh cụ thể về việc quản lý thông tin của thuê bao di động, bao gồm việc xác minh thông tin khi giao kết hợp đồng tại Nghị định 49 của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại rất nhiều thuê bao di động không xác định được thông tin thuê bao, thông tin không đúng, SIM thuê bao được kích hoạt sẵn hay những SIM rác vẫn còn được rao bán tràn lan trên thị trường”, ông Sang nói.
Điều này sẽ tác động tiêu cực đến quá trình quản lý Mobile Money. Bởi lẽ, khi những thuê bao không xác minh danh tính được sử dụng dịch vụ Mobile Money thì tội phạm có thể dùng nhiều thuê bao để thực hiện rửa tiền, mà các cơ quan quản lý không thể xác định được thông tin thì sẽ không xác định được các dòng tiền sẽ di chuyển như thế nào, và việc rửa tiền cũng sẽ không thể bị phát hiện.
Thứ hai, Việt Nam hiện có khoảng 96 triệu dân, nhưng lại sở hữu 125 triệu thuê bao di động. Tỉ lệ sở hữu thuê bao di động trung bình tại Việt Nam là 1,3 thuê bao trên mỗi người dân. Khi một cá nhân có nhiều thuê bao di động được đăng ký Mobile Money, họ có thể bán lại hoặc cấu kết với tội phạm rửa tiền để chuyển tiền qua những tài khoản khác nhau của nhiều người dùng, kể cả khi những tài khoản này được xác định đầy đủ thông tin. Cộng với tính chất ẩn danh, không phải trực tiếp xác minh thông tin như ở ngân hàng thị tội phạm rửa tiền dễ dàng che giấu được nguồn gốc của số tiền…
Thứ hai là lưu trữ thông tin khách hàng và định mức giao dịch. Việc định mức này để tội phạm rửa tiền không thể lợi dụng việc chuyển những tài khoản nhỏ lẻ thành nhiều lần nhằm che giấu nguồn gốc của số tiền lớn. Vì vậy, việc định mức giao dịch cho dịch vụ Mobile Money là rất quan trọng, có thể định mức theo tổng giá trị được giao dịch trong một ngày hoặc trong 1 tháng.
Thứ nữa, phải kiểm soát giao dịch đáng ngờ, bao gồm việc theo dõi dòng tiền di chuyển qua các thuê bao di động để nhận ra sự bất thường trong các giao dịch, từ đó có những biện pháp xử lý, đối phó.
Cũng liên quan đến việc quản lý những rủi ro khi triển khai Mobile Money, Chuyên gia tài chính – ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu cho hay, trước hết, cần có những biện pháp chặt chẽ để kiểm soát lượng tiền di động các nhà mạng viễn thông cung cấp phải tương ứng đúng với số tiền khách hàng đã nộp vào, tránh để xảy ra hiện tượng các nhà mạng có thể tạo ra cung tiền mới. Song song với đó là các biện pháp nhằm quản lý, kiểm soát không để các nhà mạng có thể sử dụng lượng tiền nộp vào của khách hàng để đầu tư vào những mục đích khác. Bên cạnh đó, cần hạn chế rủi ro về thông tin, dữ liệu, theo đó các quy định pháp luật về bảo mật, an toàn thông tin, dữ liệu cần được ưu tiên xây dựng.
Đặc biệt, để việc triển khai Mobile Money đạt hiệu quả, các doanh nghiệp viễn thông phải đạt được các yêu cầu như phải định danh khách hàng sử dụng thuê bao di động chặt chẽ trên thực tế, chứ không phải trên pháp lý để có kho dữ liệu chính xác. Theo đó, các nhà mạng viễn thông cần phải chuẩn hóa kho dữ liệu khách hàng, dữ liệu khách hàng phải chính xác, phải giải quyết triệt để vấn đề “sim rác”.
Đồng thời, việc xác thực định danh phải được bảo mật, an toàn như ngân hàng, tránh mạo danh, hạn chế rủi ro mất tiền trong tài khoản khách hàng, bảo vệ quyền lợi khách hàng, cũng như phải đảm bảo các yêu cầu trong công tác phòng, chống rửa tiền…