Tăng cường nội địa hóa trong đầu tư công: Quyết sách vì tự cường kinh tế

(DNTO) - Khi một quốc gia quyết định chi hàng trăm nghìn tỷ đồng cho đầu tư công mỗi năm, câu hỏi lớn đặt ra không chỉ là “xây cái gì” mà còn là “xây bằng cái gì và của ai sản xuất”.
Đầu tư công chưa phát huy được vai trò dẫn dắt thị trường nội địa
Tại Tọa đàm của Thủ tướng Chính phủ với các doanh nghiệp về việc triển khai hiệu quả Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân mới diễn ra ngày 31/5 vừa qua, ông Trần Đình Long, Chủ tịch Tập đoàn Hòa Phát đã nêu một đề xuất đầy thẳng thắn và thực tiễn: “Tất cả các dự án đầu tư công, ví dụ như đường cao tốc, tỉ lệ phải là 70% hàng sản xuất trong nước. Đấy là điều kiện tiên quyết”. Sau những đồng tình ban đầu, cũng gần ngay lập tức lo ngại cũng nổi lên: liệu việc luật hóa tỷ lệ này có trở thành hình thức bảo hộ trá hình, đi ngược lại với tinh thần hội nhập? Câu trả lời không đơn giản, nhưng cũng không thể né tránh.

Ông Trần Đình Long, Chủ tịch Tập đoàn Hòa Phát phát biểu tại phiên Tọa đàm ngày 31/5. Ảnh: VGP
Trong nhiều năm qua, đầu tư công ở Việt Nam vẫn được kỳ vọng là “bệ đỡ” cho nền kinh tế, là động lực kích cầu, tạo công ăn việc làm và dẫn dắt thị trường. Thế nhưng thực tế cho thấy, nhiều dự án hạ tầng quan trọng vẫn phụ thuộc lớn vào hàng hóa, thiết bị và dịch vụ kỹ thuật từ nước ngoài. Điển hình như tuyến Metro Nhổn - Ga Hà Nội, phần lớn thiết bị cơ điện đều nhập khẩu. Trong dự án cao tốc Bắc - Nam phía Đông, các gói thầu lớn có tỷ lệ vật liệu trong nước thấp hơn mong đợi, khiến ngành công nghiệp hỗ trợ không có cơ hội phát triển.
Tình trạng này xuất phát một phần từ cơ chế “ưu tiên” chung chung trong các văn bản pháp luật. Dự thảo nghị định về đặt hàng gần đây chỉ viết rằng: “ưu tiên sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước”, nhưng lại không xác định rõ tiêu chí, tỷ lệ cụ thể, và cũng không có chế tài nếu không thực hiện. Trong thực tế đấu thầu, cụm từ “ưu tiên” thường bị diễn giải thành “nếu thuận tiện thì làm”, chứ không có sức nặng pháp lý. Điều này không chỉ khiến doanh nghiệp nội địa tiếp tục lép vế, mà còn khiến đầu tư công không phát huy được vai trò dẫn dắt thị trường nội địa.
Đã đến lúc pháp luật phải đứng về phía doanh nghiệp nội
Để tránh tình trạng “hiểu sao cũng được”, việc luật hóa tỷ lệ sử dụng hàng trong nước là một giải pháp thiết thực và khả thi. Hoa Kỳ đã có Đạo luật Buy American Act từ năm 1933, yêu cầu chính phủ liên bang sử dụng hàng hóa sản xuất nội địa trong các dự án mua sắm công. Còn tổng thống hiện tại Donald Trump sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ 2 cũng đã tiếp tục đẩy mạnh chính sách “Nước Mỹ trên hết” bằng cách ký nhiều sắc lệnh yêu cầu các cơ quan liên bang tăng tỷ lệ sử dụng hàng hóa sản xuất tại Mỹ lên tối thiểu 95% trong lĩnh vực sắt thép và 55% đối với các sản phẩm khác…
“Áp dụng tỉ lệ nội địa hoá phù hợp theo lộ trình trong các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, ưu tiên; đặt vấn đề các dự án FDI lớn phải có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án. Hỗ trợ khởi nghiệp cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đã làm việc tại doanh nghiệp FDI nhằm tận dụng kinh nghiệm, kiến thức, mô hình quản trị, mối quan hệ với các doanh nghiệp FDI để tham gia vào chuỗi cung ứng” (Trích Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân).
Một cường quốc ngay cạnh nước ta là Trung Quốc - đối thủ chiến lược của Mỹ - lại càng quyết liệt hơn, với chính sách “Made in China 2025” đòi hỏi tỷ lệ nội địa hóa rất cao trong các lĩnh vực then chốt, nhắm đến việc đưa Trung Quốc trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới trong 10 ngành công nghệ cao như chế tạo robot, xe điện, công nghệ sinh học, thiết bị hàng không vũ trụ và bán dẫn. Để hiện thực hóa mục tiêu, Bắc Kinh không chỉ đổ hàng nghìn tỷ nhân dân tệ vào nghiên cứu và phát triển, mà còn thiết lập các tiêu chí bắt buộc về tỷ lệ nội địa hóa trong các dự án có sử dụng ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp nước ngoài muốn tiếp cận thị trường Trung Quốc buộc phải liên doanh hoặc chuyển giao công nghệ, một hình thức ràng buộc ngầm nhưng hiệu quả để tăng dần năng lực sản xuất trong nước.
Một cường quốc châu Á khác là Ấn Độ cũng phát động phong trào “Atmanirbhar Bharat” (tự lực tự cường) dưới thời Thủ tướng Modi, nhấn mạnh tầm nhìn về một Ấn Độ tự lực và kiên cường, hòa nhập với cộng đồng thế giới, trong đó luật hóa nhiều ưu đãi và quy định bắt buộc dùng sản phẩm nội địa trong đầu tư công…
Vậy, liệu luật hóa có vi phạm cam kết hội nhập quốc tế? Câu trả lời là: không hẳn. Trong Hiệp định CPTPP, phần lớn các nước thành viên chỉ mở một phần nhỏ thị trường mua sắm công, và Việt Nam có quyền bảo lưu một số lĩnh vực. WTO cũng cho phép thành viên áp dụng chính sách nội địa hóa trong phạm vi không trái với nguyên tắc đối xử quốc gia và không phân biệt đối xử, nếu các ngành trong nước chưa đủ năng lực cạnh tranh. Hơn nữa, luật hóa không đồng nghĩa với triệt tiêu cạnh tranh: hoàn toàn có thể quy định rõ lộ trình, lĩnh vực áp dụng, và các trường hợp ngoại lệ khi trong nước không sản xuất được hoặc không đạt chuẩn kỹ thuật.

Đầu tư công sẽ trở thành động lực dẫn dắt thị trường trong nước khi đi kèm với các quy định ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa
Điều quan trọng là phải xác lập một khuôn khổ pháp lý minh bạch, rõ ràng và có thể thực thi. Thay vì “ưu tiên”, luật cần quy định: bắt buộc sử dụng hàng sản xuất trong nước đối với các nhóm vật tư, thiết bị mà doanh nghiệp nội địa đã làm chủ công nghệ và sản xuất ổn định. Với các ngành còn yếu, có thể có lộ trình từ 30%, rồi 50%, đến 70% sau vài năm. Bên cạnh đó, cần thành lập một cơ sở dữ liệu quốc gia về năng lực sản xuất trong nước, cập nhật liên tục để làm căn cứ đấu thầu minh bạch.
Trong bối cảnh các nước đang dịch chuyển khỏi toàn cầu hóa tuyệt đối sang chiến lược “đa phương có chọn lọc”, Việt Nam cần vững vàng trong việc xác lập chủ quyền kinh tế. Nếu đầu tư công - một nguồn lực khổng lồ do chính nhân dân đóng góp - không được sử dụng để kích hoạt công nghiệp nội địa, thì đó mới là điều vô lý. Luật hóa tỷ lệ sử dụng hàng sản xuất trong nước không phải là bảo hộ mù quáng, mà là một bước đi thông minh, thiết thực và đầy trách nhiệm.
Khi nền kinh tế đứng trước yêu cầu “độc lập, tự chủ trong hội nhập sâu rộng”, thì không thể tiếp tục chỉ dựa vào khẩu hiệu “người Việt dùng hàng Việt”. Đã đến lúc pháp luật phải đứng về phía doanh nghiệp nội, bằng những quy định cụ thể, có tính cưỡng chế, thay vì những lời động viên mang tính biểu trưng. Bởi phát triển kinh tế tư nhân không thể chỉ dừng ở tầm nhìn, mà cần bắt đầu từ những điều khoản pháp lý mang tính định hướng và hành động.
Để tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 68, thì nội địa hóa trong đầu tư công phải là chính sách có tính ràng buộc pháp lý chứ không dừng ở khẩu hiệu ưu tiên. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp nội hoàn toàn có khả năng cung ứng vật tư, thiết bị hạ tầng đạt chuẩn, nhưng lại thất thế ngay trên sân nhà vì cơ chế đấu thầu vẫn ưu ái hàng nhập khẩu. Vì vậy, việc luật hóa tỷ lệ hàng nội địa trong các dự án đầu tư công là khả thi, nhưng cần đi kèm với cơ sở dữ liệu minh bạch về năng lực sản xuất trong nước. Nhà nước nên ban hành danh mục các nhóm sản phẩm bắt buộc sử dụng hàng nội địa, có cập nhật theo quý, tránh tình trạng “kêu gọi miệng” mà không có công cụ hỗ trợ cụ thể” (Ông Phạm Duy Cường, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất và Dịch vụ Sen Việt).