Làm gì để các chính sách thực sự 'thẩm thấu' đến doanh nghiệp?
(DNTO) - Trải qua 4 đợt càn quét của Covid-19, những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực sự sẽ tạo đòn bẩy, giúp doanh nghiệp "vá lại các vết thương” và có sức bật phục hồi tốt hơn để tái sản xuất. Tuy nhiên, làm sao để các chính sách thực sự thẩm thấu đến doanh nghiệp vẫn còn là bài toán nan giải.
Tác động "trợ lực" của các chính sách đối với doanh nghiệp
Dịch Covid-19 bùng phát mạnh trở lại lần thứ 4 và lan rộng ra hầu hết các tỉnh, thành phố cả nước, đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp, đặt ra nhiều thách thức cho việc tồn tại, cũng như khôi phục trở lại hoạt động trong điều kiện bình thường mới.
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục thống kê vừa công bố, tính chung 9 tháng đầu năm 2021, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể là 45,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 16,7% so với cùng kỳ. Bình quân một tháng, có 10.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ, các bộ, ngành đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ, giúp doanh nghiệp có thêm “sức đề kháng” cũng như nguồn lực để khôi phục và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về vấn đề này, tại Diễn đàn chính sách trực tuyến: "Hỗ trợ doanh nghiệp trong đại dịch Covid-19: Từ chính sách đến thực tiễn”, ngày 1/10, bà Nguyễn Thị Thu Hà, Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền và Hỗ trợ người nộp thuế, Tổng cục Thuế cho hay, trong 2020 ngân sách đã hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp là 129 nghìn tỷ đồng, trong đó có 97,5 nghìn tỷ thực hiện theo chính sách gia hạn các khoản phải đóng góp vào ngân sách, 31,5 tỉ đồng miễn giảm trực tiếp cho người nộp thuế.
Đặc biệt, đợt bùng phát dịch lần thứ 4 ở Nam Trung Bộ, Bộ Tài chính đã tham mưu triển khai trực tiếp miễn giảm 30 loại phí cho ngành hàng thiết yếu như sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cơ khí... Đồng thời, đã triển khai Nghị định 52, gia hạn các loại thuế chính cho doanh nghiệp triển khai từ tháng 4 đến nay, ước tính khoảng 115 nghìn tỷ đồng, trong đó, số tiền được hỗ trợ nhiều nhất là thuế GTGT khoảng 60%.
Gần đây nhất, với gói hỗ trợ mới 21,3 nghìn tỷ đồng, tập trung vào 4 nhóm chính sách, mang tính chất miễn giảm trực tiếp vào số thuế phải nộp, đã giúp giảm bớt áp lực thanh toán, tạo điều kiện cho doanh nghiệp quay vòng vốn, duy trì được sản xuất kinh doanh.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho biết, Ngân hàng nhà nước đã kịp thời ban hành các thông tư để cho các tổ chức tín dụng có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp cơ cấu nợ, điều chỉnh miễn giảm không phải trả lãi...
"Từ khi thực hiện Thông tư 01 đến nay, số cơ cấu nợ đã thực hiện là trên 530 nghìn tỷ, số dư nợ là trên 227 nghìn tỷ, miễn giảm lãi cho các tổ chức tín dụng cho khách hàng là trên 26 nghìn tỷ, miễn giảm lãi gần 2 nghìn tỷ. Đặc biệt, từ tháng 7/2021 đến nay, Hiệp hội ngân hàng đã kêu gọi các tổ chức tín dụng tiên phong giảm lãi suất cho các doanh nghiệp và đã cam kết thực hiện từ nay đến hết năm là 20,3 nghìn tỷ, số liệu này đã được công bố chính thức trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là sự nỗ lực tích cực của tổ chức tín dụng trong việc "cộng sinh" với doanh nghiệp", ông Hùng cho hay.
Dưới góc nhìn của người thụ hưởng chính sách, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng, những chính sách về thuế, tín dụng vừa qua đã tác động tích cực đến các doanh nghiệp.
Tuy nhiên theo ông Tuấn, các chính sách hỗ trợ của Việt Nam mới dừng ở mức "giảm thu, chứ chưa tăng chi", trong khi đó, các chính sách hỗ trợ ở lĩnh vực thuế ngân hàng thường được ban hành áp dụng tương đối ngắn hạn, chưa tương xứng với mức độ khó khăn và khả năng phục hồi của doanh nghiệp.
Một số quy định về thuế mới chỉ áp dụng trong quý 3, quý 4, trong khi bản thân các doanh nghiệp hiện nay ước tính sớm nhất đến giữa năm 2022 mới có thể phần nào hồi phục được. Chính vì vậy chính sách phải mang tính dài hạn hơn tương xứng với bối cảnh đặc biệt khó khăn cho các doanh nghiệp.
"Theo đánh giá của các nhà kinh tế quy mô của các gói hỗ trợ của Việt Nam còn khiêm tốn nhỏ hơn so với các nước khác. Hy vọng thời gian tới, các nhóm giải pháp phải mạnh hơn, "tiền tươi thóc thật" hơn, chứ nếu chỉ hoãn, giãn thì gánh nặng tài chính với họ vẫn là một quả bom treo lơ lửng", ông Tuấn nói.
Về vấn đề này, bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân cho rằng, đối với doanh nghiệp hiện nay khó khăn lớn nhất là sức khỏe về tài chính. Cho nên những hỗ trợ với doanh nghiệp lúc này thực sự là "phao cứu sinh" với họ. Tuy nhiên giữa kỳ vọng trong thực tiễn với những gì mà chính sách thiết kế, vẫn còn giữ khoảng cách nhất định, khiến nhiều doanh nghiệp vẫn "than trời" trong khi các gói hỗ trợ kề "sát bên".
"Đối với ngân hàng, mặc dù chúng ta đưa ra những thông tư để hỗ trợ, tuy nhiên theo như doanh nghiệp phản ánh, thì quá trình thực hiện ở các ngân hàng cũng không đồng nhất. Ngay cả khi Thông tư 01 được sửa đổi, nhưng các ngân hàng thương mại vẫn chưa triển khai. Tôi nghĩ rằng thời gian tới, chúng ta cũng nên nghĩ cách để gia tăng hiệu quả gói hỗ trợ, để cải thiện được năng lực tiếp cận vốn cho doanh nghiệp", bà Thuỷ nhận định.
Cần làm gì để các chính sách phát huy tính ưu việt?
Theo ông Tuấn, từ những khảo sát, đánh giá mức độ tiếp nhận chính sách của doanh nghiệp thời gian qua cho thấy, những nhóm giải pháp nào mà tự thực hiện được, không phải qua các hệ thống thực thi của bộ máy các cấp, thì sẽ đến được với doanh nghiệp gần hơn, nhanh hơn so với cơ chế 3 cửa, 4 cửa.
"Doanh nghiệp mong được hưởng những chính sách trực tiếp, hơn nữa họ không thể hiểu được các chính sách quá phức tạp. Do vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần thiết kế các chính sách để cho doanh nghiệp có thể tự thực hiện được sẽ tạo hiệu ứng cao. Đồng thời, nên thiết kế chính sách đơn giản dễ hiểu và cần có những cơ chế giải đáp vướng mắc cho doanh nghiệp", ông Tuấn nói.
Cũng theo ông Tuấn, cần có một kênh đánh giá hiệu quả thực thi chính sách có đúng tiến độ hay không, người thụ hưởng như thế nào, nhìn nhận doanh nghiệp, người dân khi tiếp cận gói hỗ trợ ra sao để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, đáp ứng mong mỏi cho người thụ hưởng.
Bày tỏ quan điểm của mình, bà Thuỷ cho rằng, chúng ta đang nói rất nhiều đến những gói hỗ trợ, nhưng thực ra nguyện vọng lớn nhất của doanh nghiệp lúc này chính là được hoạt động.
Tài chính, dòng tiền chính là "máu" của doanh nghiệp, và tất cả mọi sự hỗ trợ dù cực kỳ đáng quý. Nhưng để "vực" dậy được hoạt động của doanh nghiệp thì câu chuyện được hoạt động chính là mấu chốt", bà Thủy bày tỏ.
"Cơ quan nhà nước cần đặt doanh nghiệp vào trong vai trò cùng quản lý những an toàn, cũng như rủi ro, thay vì chỉ là đối tượng chịu sự quản lý, ở vai bị động, hơn nữa bản thân các doanh nghiệp, họ chính là bài toán để phục hồi kinh tế, là chủ thể chính của việc thực hiện "mục tiêu kép". Do đó, trong việc thiết kế các chính sách cũng nên đề cập tới tính chủ động của doanh nghiệp trong tiến trình tới đây", bà Thủy nhấn mạnh.
Về phần mình, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng nêu kiến nghị: "Thời gian tới cần điều chỉnh gộp Thông tư 03, Thông tư 01 và Thông tư 14 lại làm một để phù hợp, thống nhất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận gói hỗ trợ".